Quy định về đối tượng kinh doanh theo phương thức đa cấp và hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp
Đối tượng kinh doanh theo phương thức đa cấp
Theo quy định tại Nghị định 40/2018/NĐ-CP ra đời thì hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp cũng chỉ được thực hiện đối với hàng hoá. “Mọi hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp với đối tượng không phải là hàng hoá đều bị cấm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Quy định về trừ trường hợp pháp luật có quy định khác này dường như còn rất mơ hồ, chưa có một văn bản nào hướng dẫn, điều này sẽ làm khó cho các cơ quan quản lý khi xem xét tới việc cấp phép hoạt động cho các doanh nghiệp tổ chức bán hàng đa cấp cho đối tượng khác không phải là hàng hóa. Do đó, hiện nay, tất cả 22 doanh nghiệp bán hàng đa cấp đang hoạt động theo quy định của Nghị định số 40/2018/NĐ-CP đều kinh doanh hàng hóa như thực phẩm chức năng, mỹ phẩm… không có một doanh nghiệp nào kinh doanh dịch vụ.
Hàng hóa được đưa vào kinh doanh theo phương thức đa cấp phải phù hợp với pháp luật có liên quan, đặc biệt trừ các loại sau: các loại thuốc; trang thiết bị y tế; thuốc thú y (gồm cả thuốc thú y thủy sản), thuốc bảo vệ thực vật, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế,các loại hóa chất nguy hiểm và sản phẩm có hóa chất nguy hiểm theo quy định của pháp luật. Sản phẩm nội dung thông tin số.
Như vậy hiện nay, đã bổ sung thêm trường hợp hàng hóa bị cấm kinh doanh theo hình thức đa cấp là sản phẩm nội dung thông tin số. Tuy nhiên, pháp luật về quản lý bán hàng đa cấp lại không liệt kê rõ những sản phẩm nào là sản phẩm thông tin số. Như vậy, trong khi thực hiện hoạt động quản lý bán hàng đa cấp cơ quan quản lý và các tổ chức, cá nhân rất khó để xác định đối tượng sản phẩm chứa nội dung thông tin số.
Bên cạnh đó, pháp luật về quản lý bán hàng đa cấp cũng không quy định rõ về tiêu chuẩn, kỹ thuật chất lượng của sản phẩm hàng hóa là đối tượng của hoạt động bán hàng đa cấp. Do đó, dẫn đến trường hợp một số doanh nghiệp lợi dụng kẽ hở này để bán hàng giả, kém chất lượng cho người tiêu dùng.
Ngoài ra, nghị định 40/2018/NĐ- CP đã loại bỏ quy định hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa cấm kinh doanh, danh mục hàng hóa hạn chế kinh doanh, hàng hóa đang bị áp dụng biện pháp khẩn cấp buộc phải thu hồi, cấm lưu thông hoặc tạm ngừng lưu thông theo quy định của pháp luật ra khỏi danh sách những hàng hóa sau không được kinh doanh theo phương thức đa cấp. Đây là một điểm tiến bộ bởi quy định này giới hạn hàng hóa được phép kinh doanh theo phương thức đa cấp là loại hàng hóa không được lưu thông là hàng đang bị áp dụng biện pháp khẩn cấp buộc thu hồi hoặc ngừng lưu thông nhưng lại chưa chỉ ra rõ ràng hàng hóa nào được phép lưu thông. Quy định như vậy vừa thừa, lại vừa không đủ.
Hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp
“Hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp là thỏa thuận bằng văn bản về việc tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp giữa cá nhân và doanh nghiệp bán hàng đa cấp”.
Hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, về chủ thể của hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp
Trong quan hệ bán hàng đa cấp, tồn tại hai chủ thể quan trọng đó là doanh nghiệp bán hàng đa cấp và người tham gia vào mạng lưới bán hàng đa cấp.
Thứ hai,về hình thức của hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp
Hình thức của hợp đồng là phương tiện để ghi nhận kết quả mà các bên đã thoả thuận với nhau. Phương tiện này có thể bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Tuy nhiên với tính chất phức tạp của quan hệ bán hàng đa cấp, khả năng phát sinh tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng này là rất lớn nên hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp luôn phải được thể hiện dưới những hình thức đảm bảo rõ ràng nhất để giúp cho quá trình thực hiện cũng như giải quyết tranh chấp trở nên thuận lợi hơn. Vì vậy, khoản 1, Điều 29, Nghị định 40/2018/NĐ – CP quy định: “Doanh nghiệp bán hàng đa cấp có trách nhiệm ký kết hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp bằng văn bản với người tham gia bán hàng đa cấp”. Đồng thời, pháp luật quản lý bán hàng đa cấp còn quy định doanh nghiệp bán hàng đa cấp phải “đăng ký mẫu hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp” nhằm mục đích quy định những điều khoản tối thiểu cần có để bảo đảm quyền lợi của người tham gia cũng như để hạn chế việc thoả thuận thêm những điều khoản bất lợi cho người tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp. Đây cũng là căn cứ pháp lý để góp phần bảo vệ quyền lợi cho những người tham gia vào mạng lưới bán hàng đa cấp, là chủ thể vốn được coi là yếu thế hơn trong quan hệ kinh doanh đa cấp.
Thứ ba,về đối tượng của hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp
Đối tượng của hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp là lợi ích mà các bên hướng tới khi kí kết hợp đồng.
Đối với doanh nghiệp bán hàng đa cấp, lợi ích mà họ hướng tới là bán được hàng hoá cho người tham gia. Do đó, dưới góc độ lợi ích của doanh nghiệp bán hàng đa cấp, đối tượng của hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp là hàng hoá. Tức là hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp là một dạng của hợp đồng mua bán hàng hoá, theo đó bên bán hàng là doanh nghiệp bán hàng đa cấp, bên mua hàng là người tham gia bán hàng đa cấp.
Tuy nhiên, lợi ích mà người tham gia bán hàng đa cấp hướng tới ngoài hàng hoá mà họ mua được thì lợi ích chủ yếu chính là tiền hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích kinh tế khác mà họ nhận được từ việc tiếp thị bán hàng của mình và của người tham gia cấp dưới trong mạng lưới do mình tổ chức được doanh nghiệp bán hàng đa cấp chấp thuận. Như vậy, dưới góc độ lợi ích của người tham gia, đối tượng của hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp lại là một công việc đó là bán hàng đa cấp.
Thứ tư, về nội dung cơ bản của hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp
Nội dung của hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp là các điều khoản mà các bên đã thoả thuận với nhau, thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ bán hàng đa cấp. Do tính chất phức tạp và đặc thù của phương thức bán hàng đa cấp nên để quản lý tốt hơn hoạt động bán hàng đa cấp, pháp luật hiện hành của Việt Nam đã ấn định những nội dung cơ bản cần phải có của hợp đồng mẫu bán hàng đa cấp gồm:
- Thông tin về chủ thể của hợp đồng
Điều 29 Nghị định 40/2018/NĐ-CP quy định, về thông tin chủ thể của hợp đồng phải bao gồm những thông tin chính như sau: Thông tin về chủ thể của hợp đồng bao gồm: Tên doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính người đại diện theo pháp luật, Họ và tên, địa chỉ của người tham gia bán hàng đa cấp; thông tin về người giới thiệu người bảo trợ họ tên, mã số.
Như vậy, pháp luật về bán hàng đa cấp quy định hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp phải thể hiện rõ thông tin của tất cả các chủ thể có liên quan đến hoạt động bán hàng đa cấp. Đây được xem là một bảo đảm về mặt pháp lý, là một trong những điều kiện để hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp đảm bảo tính hiệu lực, mang tính xác thực cao và hạn chế được những rủi ro có thể xảy ra.
- Thông tin về sản phẩm kinh doanh
Hiện nay, tại Việt Nam, các sản phẩm mà các doanh nghiệp bán hàng đa cấp ở Việt Nam phân phối chủ yếu là các sản phẩm có xuất xứ từ các nước ngoài như Hoa Kì, Anh, Pháp, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan… Những sản phẩm này người tiêu dùng Việt Nam hầu như chưa từng biết đến. Cho nên “nhiều doanh nghiệp bán hàng đa cấp đã lợi dụng việc thiếu thông tin về sản phẩm để quảng cáo sai sự thật về tính năng, công dụng, chất lượng… của sản phẩm”. Do đó, để ngăn chặn việc các doanh nghiệp, các nhà phân phối phóng đại, lừa dối thông tin về công dụng tính năng xuất xứ của sản phẩm thì trong hợp đồng phải thể hiện rõ được các thông tin liên quan đến tên nguồn gốc xuất xứ, tính năng của sản phẩm. Những thông tin này phải được cung cấp một cách trung thực, chính xác trong hợp đồng để người tiêu dùng có thể tự kiểm tra, nắm bắt về sản phẩm mà mình mua.
- Tiền thưởng hoa hồng hoặc các lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp trả cho người tham gia.
Tiền thưởng hoa hồng và kế hoạch trả thưởng phải thực hiện theo một kế hoạch đã được quy định và công khai trong hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp.
Đây cũng là nội dung mà người tham gia quan tâm nhất khi tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp việc có hay không có một kế hoạch trả thưởng một cách công khai, rõ ràng và hợp pháp. Đây là một trong những đặc điểm để phân biệt giữa hoạt động bán hàng đa cấp chân chính và hoạt động bán hàng đa cấp bất chính.Tại doanh nghiệp bán hàng đa cấp bất chính thì chính sách trả thưởng không rõ ràng, không được công khai rõ ràng, minh bạch các khoản tiền thưởng tiền hoa hồng hoặc lợi ích kinh tế mà người tham gia nhận được chính từ việc giới thiệu người cấp dưới tham gia vào mạng lưới bán hàng đa cấp, đây cũng là nguyên lý tạo ra thu nhập và để phân chia cho những người trong mạng lưới, người vào trước luôn được hưởng lợi nhưng những người vào sau có nguy cơ phải đối mặt với rủi ro mất một khoản đầu tư mà họ đã bỏ ra để tham gia vào mạng lưới bán hàng đa cấp.
Những cam kết này sẽ được xác lập trên cơ sở thoả thuận tự do, bình đẳng và tự nguyện giữa các bên song không trái quy định pháp luật.
Ngoài ra, liên quan đến hình thức thanh toán tiền hoa hồng, tiền thưởng, Nghị định 40/2018/NĐ-CP đã quy định ấn định việc thanh toán tiền thưởng, tiền hoa hồng cho những người tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp phải được thực hiện thông qua hình thức chuyển khoản ngân hàng. Đây là một trong những quy định mới và tiến bộ của Nghị định 40/2018/NĐ-CP nhằm mục đích kiểm soát việc chi trả thưởng hoa hồng hoặc các khoản tiền khác cho người tham gia, bảo đảm việc chi trả được công khai, minh bạch tránh tình trạng mập mờ về tiền thưởng hoa hồng giữa doanh nghiệp và người tham gia. Đồng thời, việc quy định tiền thưởng, tiền hoa hồng thông qua chuyển khoản ngân hàng cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan quản lý nhà nước có thể điều tra, xác minh làm rõ đối với các hành vi kinh doanh đa cấp bất chính.
Đồng thời, pháp luật cũng đã quy định tổng trị giá hoa hồng, tiền thưởng và lợi ích kinh tế khác trả cho người tham gia bán hàng đa cấp trong một năm không được vượt quá 40% doanh thu bán hàng đa cấp trong năm đó của doanh nghiệp hàng đa cấp. Như vậy, pháp luật đã đặt ra quy định giới hạn về mức tối đa tiền thưởng, tiền hoa hồng hoặc các lợi ích kinh tế khác. Có thể nói, đây là một trong những quy định tiến bộ trong hệ thống pháp luật của Việt Nam về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp. Quy định hạn chế mức trần tiền trả hoa hồng nhằm hạn chế việc đẩy giá hàng hoá lên quá cao. Nếu tỷ lệ chiết khấu trả thưởng cho nhà phân phối quá cao thì thường sẽ thu hút được nhiều người tham gia vào mạng lưới song sẽ ảnh hưởng lớn doanh nghiệp, khiến doanh nghiệp sẽ ít thu về lợi nhuận để bù đắp vào lợi nhuận thì những người tham gia hoặc doanh nghiệp sẽ phải nâng giá của sản phẩm cao hơn nhiều so với mức giá bán thông thường của sản phẩm.
Quy định về việc mua lại hàng hoá đây là một trong những quy định đặc biệt quan trọng để bảo đảm quyền lợi cho các nhà phân phối. Theo đó, người tham gia bán hàng đa cấp có quyền yêu cầu doanh nghiệp mua lại hàng hóa, bao gồm cả hàng hóa được bán theo chương trình khuyến mại. Cụ thể theo quy định tại Điều 47, Nghị định số 40/2018/NĐ-CP, người tham gia bán hàng đa cấp có quyền trả lại hàng hóa đã mua từ doanh nghiệp bán hàng đa cấp, bao gồm cả hàng hóa được mua theo chương trình khuyến mại, trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận hàng hàng hoá được trả lại phải đáp ứng được những điều kiện nhất định tuỳ theo từng trường hợp. Nếu người tham gia có nhu cầu trả lại hàng hóa hợp lệ và gửi yêu cầu cho doanh nghiệp thì doanh nghiệp bán hàng đa cấp có trách nhiệm mua lại các hàng hóa đáp ứng điều kiện đối với hàng hoá với mức giá thoả thuận không thấp hơn 90% số tiền mà người tham gia đã trả để lấy số hàng hóa đó.
- Các trường hợp chấm dứt hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp và nghĩa vụ phát sinh kèm theo.
Theo Điều 30 Nghị định 40/2018/NĐ – CP, hợp đồng bán hàng đa cấp chấm dứt trong các trường hợp sau:
- Đối với người tham gia bán hàng đa cấp: Người tham gia có quyền chấm dứt hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp bằng việc gửi thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bán hàng đa cấp trước khi chấm dứt hợp đồng ít nhất là 10 ngày làm việc.
- Đối với doanh nghiệp bán hàng đa cấp: Doanh nghiệp bán hàng đa cấp có quyền chấm dứt hợp đồng với người tham gia khi người tham gia vi phạm các quy định tại Điều 41, Nghị định 40/2018/NĐ – CP.
Kể từ thời điểm chấm dứt hợp đồng, các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, tuy nhiên, doanh nghiệp bán hàng đa cấp vẫn phải bị ràng buộc một số trách nhiệm đối với người tham gia được quy định tại khoản 4, Điều 30, Nghị định 40/2018/NĐ – CP. Sau khi chấm dứt hợp đồng, các bên phải tiến hành thanh lí hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp.
- Cơ chế giải quyết tranh chấp hợp đồng
Trong một mối quan hệ pháp luật bất kỳ, tranh chấp xảy ra là vấn đề không thể tránh khỏi. Đối với quan hệ bán hàng đa cấp cũng không phải là ngoại lệ, nên pháp luật quy định hợp đồng bán hàng đa cấp phải có cơ chế giải quyết tranh chấp nhưng cũng đề cao tính tự do tự nguyện của các bên nhằm để các bên tham gia tự do thỏa thuận lựa chọn cơ chế giải quyết tranh chấp nhằm giải quyết các mâu thuẫn giữa hai bên, đảm bảo lợi ích của bên còn lại khi bị bên kia xâm phạm.
Ngoài những nội dung cơ bản của hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp đề cập ở trên, là những nội dung bắt buộc các bên phải thoả thuận với nhau trong quá trình giao kết hợp đồng, thì các chủ thể tham gia vào hợp đồng sẽ có quyền thoả thuận trên cơ sở tự do, bình đẳng, tự nguyện và không trái với các quy định pháp luật. Nội dung của hợp đồng được thoả thuận và thể hiện càng chi tiết bao nhiêu thì việc triển khai thực hiện cũng như giải quyết các mâu thuẫn phát sinh giữa các chủ thể cùng thuận lợi bấy nhiêu.
Quy định về các cơ quan quản lý Nhà nước đối với bán hàng đa cấp
Các cơ quan quản lý Nhà nước về bán hàng đa cấp ở Việt Nam đảm bảo tính thống nhất từ Trung ương đến địa phương, được quy định tại Chương VII Nghị định 40/2018/NĐ-CP và được phân định chức năng, nhiệm vụ cụ thể:
Bộ Công Thương chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp trong phạm vi cả nước:
- Cấp, sửa đổi, bổ sung, gia hạn, cấp lại, thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp và xác nhận tiếp nhận hồ sơ thông báo chấm dứt hoạt động bán hàng đa cấp của doanh nghiệp;
- Thu, quản lý và sử dụng phí thẩm định cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật;
- Thông báo việc cấp, sửa đổi, bổ sung, gia hạn, thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp, xác nhận tiếp nhận hồ sơ thông báo chấm dứt hoạt động bán hàng đa cấp tới các Sở Công Thương nơi doanh nghiệp tổ chức hoạt động bán hàng đa cấp;
- Thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động bán hàng đa cấp và xử lý theo thẩm quyền;
- Hướng dẫn, phối hợp với các Sở Công Thương tiến hành thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm quy định của pháp luật về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp;
- Thông báo, chuyển cơ quan có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm quy định của pháp luật về quản lý hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp;
- Tổ chức đào tạo, tập huấn chuyên môn cho cán bộ, công chức trực tiếp thực hiện công tác quản lý nhà nước về bán hàng đa cấp; phổ biến, tuyên truyền pháp luật về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp cho các doanh nghiệp, người tham gia bán hàng đa cấp;
- Xây dựng và trình các cấp có thẩm quyền ban hành hoặc sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp;
- Thực hiện các trách nhiệm khác theo quy định của Nghị định này.
Do tính chất đặc thù, mới mẻ và hiện đại của mô hình bán hàng đa cấp ở Việt Nam nên việc quản lý có sự phức tạp, liên quan đến nhiều cơ quan quản lý Bộ, Ngành và Ủy ban nhân dân các cấp, đòi hỏi sự kết hợp quản lý của Ủy ban cạnh tranh Quốc gia, Tổng cục Quản lý thị trường, Tổng cục hải quan, Bộ Khoa học, công nghệ và môi trường, Bộ Công an…
Theo Chỉ thị 30/CT-TTg ban hành 31/10/2016 về việc tăng cường quản lý Nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp thì Thủ tưởng Chính phủ yêu cầu: Bộ Công Thương cùng các Bộ, ngành phối hợp trong công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về an toàn thực phẩm, các hoạt động khuyến mại, quảng cáo, hội nghị, hội thảo, tuyên truyền về các sản phẩm được phép kinh doanh theo phương thức đa cấp thuộc phạm vi thẩm quyền do pháp luật quy định. Quy định rõ nhiệm vụ của từng Bộ/Ban/Ngành trong việc tăng cường công tác nắm tình hình, kịp thời phát hiện, điều tra làm rõ các tổ chức, cá nhân kinh doanh theo phương thức đa cấp hoặc lợi dụng kinh doanh đa cấp biến tướng nhằm thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật như lừa đảo chiếm đoạt tài sản, trốn thuế, gian lận thương mại buôn lậu, sản xuất kinh doanh hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, huy động tài chính trái phép, kinh doanh trái phép gây thiệt hại cho nhà nước và người tiêu dùng, gây mất ổn định chính trị, an ninh, kinh tế…
Tác giả nhận thấy, quy định mới liên quan đến các chủ thể quản lý hoạt động bán hàng đa cấp tại Nghị định 40/2018/NĐ-CP là hoàn toàn hợp lý, phù hợp với những yêu cầu cấp thiết từ thực tế đặt ra bởi việc quy định rõ thẩm quyền của từng cơ quan ban ngành giúp các cơ quan này xác định nhiệm vụ quyền hạn của mình để tránh trường hợp vượt quá quyền hạn, đồng thời cũng giúp người dân nắm rõ quyền hạn của từng cơ quan để yêu cầu giải quyết, tránh đùn đẩy trách nhiệm không giải quyết do pháp luật không quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của mình.
Ở nước ta hiện nay, việc kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm được giao trách nhiệm cho Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia (Bộ Công Thương). Quy trình xử lý vi phạm pháp luật về quản lý bán hàng đa cấp được thực hiện theo tố tụng cạnh tranh. Cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh bao gồm: Ủy ban cạnh tranh quốc gia, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh, Hội đồng giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ cạnh tranh, Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh. Các cơ quan này có trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ được giao và phối hợp, hỗ trợ với các cơ quan khác trong giải quyết các hành vi vi phạm pháp luật về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp.