1. Nhận thức về cạnh tranh
Có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về cạnh tranh. Pháp luật về cạnh tranh của Việt Nam xem xét cạnh tranh dưới hai góc độ:
Góc độ thứ nhất, cạnh tranh là một hiện tượng, một tình trạng của thị trường. Khi đó:
Cạnh tranh là hiện tượng các doanh nghiệp có những lợi ích giống nhau trên cùng thị trường ganh đua lẫn nhau để tăng cường sự ảnh hưởng trên thị trường nhằm gia tăng lợi ích của mình.
Cạnh tranh là một quy luật khách quan của kinh tế thị trường, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, điều tiết thị trường. Cạnh tranh đúng quy luật là yếu tố quan trọng làm lành mạnh các quan hệ xã hội. Cạnh tranh thúc đẩy các doanh nghiệp phải đổi mới, không ngừng sáng tạo để tạo lợi thế vượt trội so với đối thủ trong việc khai thác các nguồn lực, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, để tăng năng suất, hiệu quả kinh doanh, thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của xã hội. Sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh sẽ thực sự tự do trong trạng thái thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Theo lý thuyết kinh tế học, một thị trường cạnh tranh hoàn hảo nếu đảm bảo các thuộc tính:
(1). Có nhiều người mua, người bán độc lập với nhau, tức là những giao dịch bình thường của một người mua hoặc một người bán không ảnh hưởng gì đến giá cả của các giao dịch tương tự được thực hiện;
(2). Tất cả đơn vị hàng hoá trao đổi được coi là giống nhau, tức là người mua không phải quan tâm đến việc họ mua hàng hoá của doanh nghiệp nào;
(3). Tất cả người mua và người bán đều có hiểu biết đầy đủ về các thông tin liên quan đến việc trao đổi, đặc biệt thông tin về mặt hàng được trao đổi và giá cả;
(4). Không có gì cản trở việc tự nguyện gia nhập và rút khỏi thị trường.
Đối lập với trạng thái cạnh tranh tự do là trạng thái độc quyền. Xu thế tự nhiên của các doanh nghiệp có tiềm lực đều muốn gia tăng sức mạnh, từ chi phối tiến tới độc chiếm thị trường nhằm chủ động kiểm soát lợi ích của họ. Doanh nghiệp sẽ bằng các phương thức khác nhau để chiếm vị trí độc quyền hoặc thống lĩnh trên thị trường. Tuy nhiên, trong khi chưa đạt được mục tiêu đó, một số doanh nghiệp có thể tìm cách “hội tụ” lại với nhau để kết hợp sức mạnh, cản trở việc tham thị trường của các doanh nghiệp muốn tham gia. Đó là những biểu hiện của trạng thái độc quyền, tác động làm suy giảm các thuộc tính của trạng thái cạnh tranh hoàn hảo. Những hành vi có xu hướng hạn chế cạnh tranh như vậy cần được kiểm soát bằng các quy định pháp luật nhằm hài hòa các lợi ích của các chủ thể trong xã hội. Trong Luật Cạnh tranh Việt Nam có quy định điều chỉnh những hành vi như vậy.
Góc độ nhìn nhận thức thứ hai: cạnh tranh là hành vi của chủ thể kinh doanh. Theo đó:
Cạnh tranh là hành vi có chủ đích của những người kinh doanh nhằm tạo lợi thế cho mình trong hoạt động kinh doanh so với những chủ thể khác.
Mục tiêu cao nhất của kinh doanh là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này các doanh nhân có thể lựa chọn nhiều con đường khác nhau nhưng nhìn chung họ đều mong muốn mở rộng được thị phần, kiểm soát thị trường các yếu tố đầu vào và sản phẩm đầu ra của mình. Trong điều kiện các nguồn lực có hạn, các doanh nghiệp phải ganh đua để có được các nguồn lực tốt nhất, có lợi nhất cho hoạt động kinh doanh. Trong phạm vi hữu hạn của tiêu dùng, các doanh nghiệp phải ganh đua để giành và không ngừng mở rộng thị phần. Những hành động cạnh tranh đó là hợp quy luật nếu được thực hiện trên cơ sở năng lực thực tế, trung thực, lành mạnh, hợp đạo đức và thông lệ kinh doanh. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp, hành vi cạnh tranh được thực hiện bằng những “mánh khóe”, lợi dụng lợi thế về quan hệ, bằng những sự gian dối… làm cho quan hệ cạnh tranh bất bình đẳng. Những hành vi cạnh tranh như vậy là không lành mạnh được coi là bất hợp pháp và phải bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật.
2. Hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh
Hành vi vi phạm qui định pháp luật về cạnh tranh là hành vi trái quy định của pháp luật cạnh tranh và nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh do các tổ chức, cá nhân thực hiện gây tác động hoặc có khả năng tác động cản trở cạnh tranh trên thị trường, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác.
3. Điều tra vụ việc cạnh tranh
“Tố tụng cạnh tranh là hoạt động điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh và giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật này”. Như vậy, điều tra vụ việc cạnh tranh trước hết là một hoạt động tố tụng cạnh tranh. Chỉ những chủ thể có thẩm quyền theo quy định của Luật Cạnh tranh mới được thực hiện điều tra vụ việc cạnh tranh. Quá trình điều tra vụ việc cạnh tranh phải tuân theo trình tự, thủ tục theo quy định của Luật Cạnh tranh.
“Vụ việc cạnh tranh là vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật về cạnh tranh bị điều tra, xử lý theo quy định của Luật này, bao gồm vụ việc hạn chế cạnh tranh, vụ việc vi phạm quy định về tập trung kinh tế và vụ việc cạnh tranh không lành mạnh”. Đối tượng của hoạt động điều tra vụ việc cạnh tranh là vụ việc cạnh tranh. Vụ việc cạnh tranh chỉ là vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật chứ không phải là vụ việc vi phạm pháp luật về cạnh tranh. Nhiệm vụ của điều tra vụ việc cạnh tranh là làm rõ bản chất của vụ việc, kết luận dứt khoát có hay không hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh đã xảy ra. Nếu có thì tổ chức, cá nhân nào đã thực hiện và đã thực hiện như thế nào? Mức độ hậu quả của hành vi vi phạm ra sao?…
Điều tra vụ việc cạnh tranh là hoạt động tố tụng cạnh tranh trong đó các chủ thể điều tra có thẩm quyền tiến hành các hoạt động theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định để chứng minh sự thật của vụ việc cạnh tranh.
Đối tượng của hoạt động điều tra vụ việc cạnh tranh là vụ việc cạnh tranh:
Trong thực tế, chúng ta thường đồng nhất đối tượng của hoạt động điều tra với tổ chức, cá nhân bị điều tra. Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học pháp lý, đối tượng của hoạt động điều tra vụ việc cạnh tranh chính là vụ việc cạnh tranh. Tổ chức, cá nhân bị điều tra chỉ là một yếu tố cần phải làm rõ trong một vụ việc cạnh tranh. Ngoài tổ chức, cá nhân mà hành vi của họ có dấu hiệu vi phạm pháp luật về cạnh tranh, Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh còn phải làm rõ nhiều yếu tố khác.
Vụ việc cạnh tranh là một sự kiện vật chất mang tính pháp lý.
Vụ việc cạnh tranh là một sự kiện vật chất là bởi vì:
Vụ việc cạnh tranh nảy sinh trong thực tế đời sống kinh tế – xã hội;
Mang những dấu hiệu (thông tin) phản ánh về hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh. Điều này có nghĩa là vụ việc cạnh tranh có thể là một sự kiện vi phạm pháp luật về cạnh tranh nhưng cũng có thể là một sự kiện cạnh tranh hợp pháp;
Vụ việc cạnh tranh là tổng hợp của nhiều yếu tố: tổ chức, cá nhân có liên quan trực tiếp đến vụ việc; quá trình thực hiện các hành vi cạnh tranh; những thiệt hại thực tế đã xảy ra; nguyên do nảy sinh vụ việc…
Vụ việc cạnh tranh là một sự kiện pháp lý, bởi vì:
+ Vụ việc cạnh tranh chỉ được xác định khi:
Đơn khiếu nại của các tổ chức và cá nhân (bên khiếu nại) khi họ cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại bởi hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về cạnh tranh;
Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh phát hiện sự việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật về cạnh tranh.
+ Vụ việc chỉ được xem xét khi:
Hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về cạnh tranh đang được thực hiện; hoặc
Hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về cạnh tranh đã được thực hiện nhưng chưa quá thời hạn 3 năm kể từ ngày hành vi đó được phát hiện.
Vụ việc được xem xét, giải quyết xử lý bởi cơ quan có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục tố tụng cạnh tranh.
4. Quá trình điều tra vụ việc cạnh tranh
Quá trình điều tra vụ việc cạnh tranh là quá trình chủ thể điều tra tiến hành các hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình để chứng minh quá trình diễn ra vụ việc cạnh tranh đúng như những gì xảy ra trong thực tế.
Quá trình điều tra vụ việc cạnh tranh là quá trình chứng minh vụ việc cạnh tranh, cụ thể:
Trước hết, các điều tra viên vụ việc cạnh tranh xác định những vấn đề cần phải chứng minh đối với vụ việc cạnh tranh cụ thể. Sau đó, trên cơ sở chứng cứ, thông tin, tài liệu đã tiếp nhận, thu thập cùng kinh nghiệm của mình, điều tra viên xây dựng các giả thuyết điều tra làm cơ sở để lập kế hoạch điều tra. Kết quả thực hiện kế hoạch điều tra là các chứng cứ mới được thu thập. Sau khi được nghiên cứu và đánh giá, các chứng cứ này có thể khẳng định hoặc phủ định giả thuyết điều tra và các giả thuyết, kế hoạch điều tra mới lại được xác lập. Cứ như vậy, các tình tiết của vụ việc cạnh tranh sẽ được chứng minh cho đến khi toàn bộ vụ việc được làm rõ.
Diễn ra trong khuân khổ luật định:
Tuân thủ trình tự và thời hạn do luật định.
Các biện pháp mà chủ thể điều tra vụ việc cạnh tranh được sử dụng để thu thập, nghiên cứu và sử dụng chứng cứ phải nằm trong phạm vi quyền hạn luật định. Các biện pháp đó bao gồm:
Các biện pháp đảm bảo thu thập chứng cứ;
Các biện pháp thu thập chứng cứ;
Các biện pháp đánh giá chứng cứ.