BVNTD

Phương pháp điều tra vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

22/05/2024

Nhận thức về vi phạm pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Đặc điểm pháp lý của vi phạm pháp luật về thảo thuận hạn chế cạnh tranh
Để hiểu đúng về vi phạm pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, phân biệt vi phạm này với các vi phạm pháp luật khác về cạnh tranh, chúng ta cần phân tích và hiểu rõ cấu thành của vi phạm này. Theo lý luận chung về nhà nước pháp luật, bất kỳ vi phạm pháp luật cũng đều cấu thành bởi bốn yếu tố sau:
Các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật
1) Mặt khách thể của vi phạm pháp luật
Mặt khách thể của vi phạm pháp luật bao gồm hai yếu tố: quan hệ xã hội bị xâm phạm và đối tượng tác động của vi phạm pháp luật.
Về quan hệ xã hội bị xâm phạm: Mọi hành vi trái pháp luật đều xâm hại tới những quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh và bảo vệ. Một hành vi vi phạm pháp luật có thể xâm phạm một hoặc nhiều quan hệ xã hội hay một hành vi vi phạm pháp luật có thể có nhiều khách thể. Các khách thể có tầm quan trọng khác nhau trong đời sống xã hội. Mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật phụ thuộc vào tính chất của các quan hệ xã hội bị xâm hại, nói cách khác nó phụ thuộc và tính chất của khách thể.
Về đối tượng tác động của vi phạm pháp luật: Đối tượng của vi phạm pháp luật là những sự vật, hiện tượng cụ thể mà hành vi vi phạm pháp luật tác động lên nó, thông qua đó gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
2) Mặt khách quan của vi phạm pháp luật
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật là toàn bộ các dấu hiệu bên ngoài của vi phạm pháp luật, bao gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội; hậu quả thiệt hại cho xã hội; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội với hậu quả thiệt hại cho xã hội; cùng các dấu hiệu khác.
Vi phạm pháp luật trước hết phải thể hiện bởi hành vi của con người (cá nhân hoặc tổ chức). Những hiện tượng tự nhiên dù gây thiệt hại thế nào cũng không phải là vi phạm pháp luật. Ý nghĩ, quan điểm, nhận thức của con người dù sai trái so với pháp luật nhưng chưa thể hiện thành thao tác, cử chỉ thì không phải là vi phạm pháp luật. Hành vi của con người để bị coi là nguy hiểm cho xã hội phải là hành vi trái pháp luật. Tính trái pháp luật được biểu hiện dưới hình thức thực hiện hành vi bị pháp luật cấm (hành động) hoặc không thực hiện hành vi mà pháp luật bắt buộc phải thực hiện (không hành động).
Hậu quả thiệt hại cho xã hội là sự biến đổi tình trạng quan hệ xã hội mà thông qua pháp luật, Nhà nước muốn thiết lập và duy trì. Hậu quả thiệt hại thể hiện trên thực tế là những tổn thất về vật chất hoặc tinh thần cho xã hội. Thiệt hại cho xã hội là cơ sở đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm pháp luật.
Giữa hành vi trái pháp luật với hậu quả thiệt hại cho xã hội có mối quan hệ nhân quả. Điều đó có nghĩa là hành vi vi phạm pháp luật phải có trước, hậu quả thiệt hại phải có sau. Sự biến đổi của tình trạng quan hệ xã hội bị xâm phạm phải do chính hành vi vi phạm pháp luật gây ra.
Ngoài ra, trong mặt khách quan còn có các dấu hiệu khác như: thời gian, địa điểm, phương tiện, công cụ, thủ đoạn thực hiện… vi phạm pháp luật.
3) Mặt chủ thể của vi phạm pháp luật
Chủ thể vi phạm pháp luật là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Cá nhân là con người cụ thể, năng lực trách nhiệm pháp lý xác định trên cơ sở tuổi, khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.
Tổ chức là nhóm người có liên kết chặt chẽ, thành lập hoạt động nhằm đạt mục tiêu nhất định. Tổ chức là chủ thể vi phạm pháp luật là những tổ chức thành lập hợp pháp, có địa vị pháp lý theo quy định pháp luật, độc lập trong việc đưa ra quyết định của tổ chức.
Cần phân biệt tổ chức là chủ thể vi phạm pháp luật với vi phạm pháp luật có tổ chức. Vi phạm pháp luật có tổ chức là vi phạm pháp luật được thực hiện bởi nhóm cá nhân, nhóm tổ chức liên kết với nhau cùng thực hiện vi phạm pháp luật. Sự tồn tại của nhóm chỉ để thực hiện vi phạm pháp luật là bất hợp pháp.
4) Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật
Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật là toàn bộ các dấu hiệu bên trong của chủ thể vi phạm pháp luật. Mặt chủ quan bao gồm yếu tố lỗi và các yếu tố có liên quan đến lỗi là động cơ, mục đích của chủ thể thực hiện vi phạm pháp luật.
Lỗi là trạng thái tâm lý phản ánh thái độ của chủ thể đối với hành vi trái pháp luật của mình, cũng như đối với hậu quả của hành vi đó. Lỗi được thể hiện dưới hai hình thức là: lỗi cố ý và lỗi vô ý. Lỗi cố ý có thể là cố ý trực tiếp có thể là cố ý gián tiếp. Lỗi vô ý có thể là vô ý vì quá tự tin cũng có thể là vô ý do cẩu thả.
Lỗi cố ý trực tiếp: Chủ thể nhận thức được hậu quả thiệt hại cho xã hội do hành vi của mình gây ra và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra.
Lỗi cố ý gián tiếp: Chủ thể thấy trước hậu quả thiệt hại cho xã hội do hành vi của mình gây ra, tuy không mong muốn nhưng để mặc cho hậu quả xảy ra.
Lỗi vô ý vì quá tự tin: Chủ thể vi phạm nhìn thấy trước hậu quả thiệt hại cho xã hội do hành vi của mình gây ra, nhưng hy vọng, tin tưởng điều đó không xảy ra hoặc nếu xảy ra có thể ngăn chặn được.
Lỗi vô ý do cẩu thả: Chủ thể vi phạm không nhận thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra, mặc dù có thể thấy hoặc cần phải nhận thấy trước. Động cơ là lý do thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Mục đích là kết quả mà chủ thể muốn đạt được khi thực hiện hành vi vi phạm.
Trong mặt chủ quan, lỗi là dấu hiệu bắt buộc, còn động cơ và mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc trừ trường hợp pháp luật yêu cầu điều đó.
Từ lý luận chung về cấu thành của vi phạm pháp luật, chúng ta cùng phân tích các yếu tố cấu thành của vi phạm pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Từ lý luận chung của khoa học pháp lý về cấu thành vi phạm pháp luật có thể phân tích các yếu tố cấu thành của vi phạm pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trên các mặt như sau:
Các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
1) Mặt khách thể
Về quan hệ xã hội bị xâm phạm, vi phạm pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh xâm phạm trật tự quản lý kinh tế được nhà nước thiết lập và duy trì bằng các quy định pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường mà Nhà nước và các chủ thể kinh doanh đều phải tôn trọng. Trong môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh, các chủ thể kinh doanh nỗ lực không ngừng cải tiến, sáng tạo, nâng cao năng lực quản lý, tăng năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm để chiếm lĩnh thị phần, khẳng định vị trí trên thị trường thông qua đó không ngừng mang lợi ích cho mình, cho người tiêu dùng và xã hội. Quan điểm của Nhà nước và pháp luật Việt Nam về cạnh tranh đã thể hiện rất rõ tại Điều 5, Điều 6 của Luật Cạnh tranh 2018. Trong đó xác định “Hoạt động cạnh tranh được thực hiện theo nguyên tắc trung thực, công bằng và lành mạnh, không xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, của người tiêu dùng”1. Vi phạm về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh phá vỡ trật tự pháp luật, đi ngược lại mục tiêu kiểm soát các thỏa thuận dẫn đến hạn chế cạnh tranh đã bị pháp luật cấm.
Cần lưu ý trật tự quản lý kinh tế trong kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, khách thể của vi phạm pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, là mối quan hệ giữa nhà nước với chủ thể thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, không phải là mối quan hệ cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế. Chủ thể vi phạm pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh phải chịu trách nhiệm pháp lý (hành chính hoặc hình sự) về vi phạm do mình thực hiện trước nhà nước chứ không phải trước đối thủ cạnh tranh hay những doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận. Những thiệt hại phát sinh nếu có cho những chủ thể không tham gia thỏa thuận do vi phạm pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh không thuộc mối quan hệ pháp luật về cạnh tranh mà thuộc trách nhiệm dân sự của chủ thể vi phạm.
Đối tượng tác động của vi phạm pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là đối tượng trong các thỏa thuận giữa các chủ thể vi phạm. Các nội dung chủ thể vi phạm thỏa thuận rất đa dạng nên đối tượng tác động của vi phạm pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh rất đa dạng. Đó có thể là: giá hàng hóa, dịch vụ (khoản 11.1)2; khách hàng, thị trường tiêu thụ; nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ (khoản 11.2); số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ (khoản 11.3); việc thắng thầu cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ (khoản 11.4); việc tham gia thị trường, phát triển kinh doanh của doanh nghiệp khác (khoản 11.5); việc rời khỏi thị trường của doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận (khoản 11.6); phát triển kỹ thuật, công nghệ, đầu tư (khoản 11.7); điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng (khoản 11.8); việc giao dịch với các bên không tham gia thỏa thuận (khoản 11.9); thị trường tiêu thụ sản phẩm, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ của bên không tham gia thỏa thuận (khoản 11.10); đối tượng khác theo quy định pháp luật (khoản 11.11).
 
2) Mặt khách quan
Về hành vi, vi phạm pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là hành vi thống nhất ý chí giữa các chủ thể tham gia thỏa thuận, cùng nhau thực hiện một hoặc một số hoạt động hạn chế cạnh tranh bị cấm và không thuộc trường hợp được miễn trừ theo quy định pháp luật về cạnh tranh. Như vậy, hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh vi phạm pháp luật cần thỏa mãn các dấu hiệu cụ thể sau đây:
Thứ nhất, phải tồn tại mối liên hệ nhất định giữa các chủ thể tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Để đạt được sự thống nhất về ý chí, giữa các chủ thể phải có sự liên hệ bằng hình thức nhất định như: gặp gỡ, gọi điện, trao đổi thư, tin nhắn… hoặc bất kỳ hình thức nào khác miễn là các chủ thể hiểu được đầy đủ ý chí của nhau. Sự liên hệ có thể dưới hình thức công khai song cũng có thể không công khai; được ghi nhận thành văn bản (gồm bản giấy, bản điện tử) hoặc không được ghi nhận bằng văn bản. Mối liên hệ này bao gồm cả việc các bên ngầm hiểu ý chí của nhau (mặc thị), song thông thường trước đó đã tồn tại sự liên hệ làm tiền đề để các chủ thể tham gia thỏa thuận theo dõi động thái lẫn nhau cùng thực hiện thỏa thuận.
Thứ hai, các chủ thể tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có “hành động tập thể” bằng việc cùng ban hành và thực hiện các quyết định kinh doanh có nội dung hạn chế cạnh tranh giống hoặc tương tự nhau. Tuy nhiên cần lưu ý, những quyết định được các chủ thể độc lập đưa ra song chúng phải là hệ quả của quá trình liên hệ trước đó giữa các chủ thể. Nếu các bên đã thống nhất với nhau nhưng chưa có quyết định và hành động cụ thể như đã thỏa thuận thì sự thống nhất đó mới chỉ là ý tưởng, vì thế chưa thể kết luận được là hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đã được thực hiện. Ngược lại, trường hợp “hành động tập thể” được thực hiện mà không phải là kết quả của quá trình liên hệ, thống nhất ý chí giữa các chủ thể thì không thể quy kết họ đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Thứ ba, nội dung thoả thuận hay thống nhất ý chí giữa các thủ thể phải thuộc trường hợp bị pháp luật cấm. Việc thỏa thuận, hợp tác kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh là hoạt động bình thường và quyền của họ. Hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chỉ được xác định là vi phạm pháp luật khi nội dung thỏa thuận bị pháp luật cấm. Căn cứ vào quy định tại Điều 11 Luật Cạnh tranh 2018 các nội dung thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, xét ở góc độ hành vi, bao gồm:
Ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp (khoản 11.1) là thống nhất giữa các chủ thể tham gia thỏa thuận cùng nhau: (1) áp dụng thống nhất mức giá với một số hoặc tất cả khách hàng; (2) tăng giá hoặc giảm giá ở mức cụ thể; (3) áp dụng công thức tính giá chung; (4) duy trì tỷ lệ cố định về giá của sản phẩm liên quan; (5) không chiết khấu giá hoặc áp dụng mức chiết khấu giá thống nhất; (6) dành hạn mức tín dụng cho khách hàng; (7) không giảm giá nếu không thông báo cho các thành viên khác của thoả thuận; (9) sử dụng mức giá thống nhất tại thời điểm các cuộc đàm phán về giá bắt đầu.
Phân chia khách hàng, thị trường tiêu thụ (khoản 11.2) là việc thống nhất giữa các chủ thể tham gia thỏa thuận rằng mỗi bên chỉ bán một số lượng hàng hóa, dịch vụ nhất định; chỉ bán hàng hóa, dịch vụ ở một khu vực, địa điểm nhất định; chỉ bán hàng hóa, dịch vụ đối với một hoặc một số nhóm khách hàng nhất định.
Thoả thuận phân chia nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ (khoản 11.2) là việc thống nhất mỗi bên tham gia thỏa thuận chỉ mua hàng hóa, dịch vụ từ một hoặc một số nguồn cung cấp nhất định.
Hạn chế số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ (khoản 11.3) là việc các bên tham gia thỏa thuận thống nhất cắt, giảm số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ trên thị trường so với trước đó.
Kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ (khoản 11.3) là việc các bên tham gia thỏa thuận thống nhất ấn định số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ ở mức nhất định.
Để một hoặc các bên tham gia thỏa thuận thắng thầu khi tham gia đấu thầu cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ (khoản 11.4) là việc các bên tham gia thỏa thuận thống nhất để: (1) Một hoặc nhiều bên tham gia thoả thuận rút khỏi việc dự thầu hoặc rút đơn dự thầu được nộp trước đó để một hoặc các bên còn lại trong thoả thuận thắng thầu; (2) Một hoặc các bên tham gia thoả thuận gây khó khăn cho các bên không tham gia thoả thuận khi dự thầu bằng cách từ chối cung cấp nguyên liệu, không ký hợp đồng thầu phụ hoặc các hình thức gây khó khăn khác; (3) Các bên tham gia thoả thuận thống nhất đưa ra những mức giá không có tính cạnh tranh hoặc đặt mức giá cạnh tranh nhưng kèm theo những điều kiện mà bên mời thầu không thể chấp nhận để xác định trước một hoặc nhiều bên sẽ thắng thầu; (4) Xác định trước số lần mỗi bên được thắng thầu hoặc luân phiên thắng thầu trong một khoảng thời gian nhất định.
Ngăn cản, kìm hãm doanh nghiệp khác tham gia thị trường (khoản 11.5) là việc thống nhất (1) không giao dịch với bất kỳ doanh nghiệp khác ngoài doanh nghiệp tham gia thỏa thuận; hoặc (2) yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ khách hàng của mình không mua, bán hàng hoá, không sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp khác; hoặc (3) mua, bán hàng hóa, dịch vụ với mức giá đủ để doanh nghiệp khác không thể tham gia thị trường.
Ngăn cản, kìm hãm không cho doanh nghiệp khác phát triển kinh doanh (khoản 11.5) là việc thống nhất: (1) không giao dịch với bất kỳ doanh nghiệp nào không tham gia thỏa thuận; hoặc (2) yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ các nhà phân phối, các nhà bán lẻ đang giao dịch với mình phân biệt đối xử khi mua, bán hàng hóa của doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận theo hướng gây khó khăn cho việc tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp này; hoặc (3) mua, bán hàng hóa, dịch vụ với mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận không thể mở rộng thêm quy mô kinh doanh.
Loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên tham gia thỏa thuận (khoản 11.6) là việc các bên tham gia thỏa thuận thống nhất thực hiện các hoạt động tương tự nội dung tại khoản 11.5 nhưng với một doanh nghiệp hoặc một số doanh nghiệp cụ thể đã được xác định không tham gia thỏa thuận.
Hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ (khoản 11.7) là việc các bên tham gia thỏa thuận thống nhất việc thống nhất mua sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp để tiêu hủy hoặc không sử dụng.
Thoả thuận hạn chế đầu tư (khoản 11.7) là việc các bên tham gia thỏa thuận thống nhất không đưa thêm vốn để mở rộng sản xuất, cải tiến chất lượng hàng hóa, dịch vụ hoặc để mở rộng phát triển khác.
Áp đặt hoặc ấn định điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho doanh nghiệp khác (khoản 11.8) là việc các bên tham gia thỏa thuận thống nhất cùng đặt ra một trong các điều kiện tiên quyết sau đây trước khi ký hợp đồng với doanh nghiệp khác: (1) hạn chế về sản xuất, phân phối hàng hoá khác; mua, cung ứng dịch vụ khác không liên quan trực tiếp đến cam kết của bên nhận đại lý theo quy định của pháp luật về đại lý; (2) hạn chế về địa điểm bán lại hàng hóa, trừ những hàng hóa thuộc danh mục mặt hàng kinh doanh có điều kiện, mặt hàng hạn chế kinh doanh theo quy định của pháp luật; (3) hạn chế về khách hàng mua hàng hóa để bán lại, trừ những hàng hóa thuộc danh mục mặt hàng kinh doanh có điều kiện, mặt hàng hạn chế kinh doanh theo quy định của pháp luật; (4) hạn chế về hình thức, số lượng hàng hoá được cung cấp.
Buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng (khoản 11.8) là việc các bên tham gia thỏa thuận cùng thống nhất ràng buộc doanh nghiệp khác khi mua, bán hàng hoá, dịch vụ với bất kỳ doanh nghiệp nào tham gia thoả thuận phải mua hàng hoá, dịch vụ khác từ nhà cung cấp hoặc người được chỉ định trước hoặc thực hiện thêm một hoặc một số nghĩa vụ nằm ngoài phạm vi cần thiết để thực hiện hợp đồng.
Không giao dịch với các bên không tham gia thỏa thuận (khoản 11.9) là việc các bên tham gia thỏa thuận thống nhất không giao kết hợp đồng, thực hiện các hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ với doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận.
Hạn chế thị trường tiêu thụ sản phẩm của các bên không tham gia thỏa thuận (khoản 11.10) có thể được hiểu là việc các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận thống nhất (1) các bên tham gia thỏa thuận cùng giới hạn số lượng, doanh số mua hàng hóa, cung ứng dịch vụ của bên không tham gia thỏa thuận; yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ khách hàng của mình giới hạn số lượng, doanh thu, doanh số tiêu thụ hàng hoá, sử dụng dịch vụ của các doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận; hoặc (3) mua, bán hàng hóa, dịch vụ với mức giá đủ để làm giảm số lượng, doanh thu tiêu thụ của các doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận.
Hạn chế nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ của các bên không tham gia thỏa thuận (khoản 11.10) có thể được hiểu là việc các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận thống nhất (1) giới hạn số lượng, doanh thu hàng hóa, dịch vụ cung cấp cho các bên không tham gia thỏa thuận; (2) yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ nhà cung cấp, khách hàng của mình giới hạn số lượng, doanh thu hàng hoá, dịch vụ cung cấp cho bên không tham gia thỏa thuận.
Thứ tư, thỏa thuận bị cấm mà các chủ thể thống nhất cùng thực hiện không được miễn trừ theo quy định pháp luật bởi cơ quan có thẩm quyền. Theo quy định tại Điều 14 Luật Cạnh tranh 2018, hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh quy định khoản 11.1, 11.2, 11.3, 11.7, 11.8, 11.9, 11.10 và 11.11 thuộc trường hợp bị cấm theo quy định tại Điều 12 có thể được miễn trừ theo trình tự, thủ tục do pháp luật về cạnh tranh quy định. Như vậy, trong các trường hợp nêu trên, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh sẽ không bị coi là vi phạm pháp luật nếu có quyết định cho hưởng miễn trừ về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia.
Về hậu quả, vi phạm pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh gây ra tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh trên thị trường. Tác động hạn chế cạnh tranh được định nghĩa tại khoản 3 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2018:“là tác động loại trừ, làm giảm, sai lệch hoặc cản trở cạnh tranh trên thị trường”.
Hậu quả của vi phạm về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể được biểu hiện dưới các dạng cụ thể sau:
Người tiêu dùng không còn cơ hội được lựa chọn hàng hóa, dịch vụ với các mức giá cạnh tranh khác nhau, của các doanh nghiệp, nhà phân phối khác nhau. Tăng chi phí, thời gian của khách hàng trong việc mua hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp tham gia thỏa thuận hoặc khi chuyển sang mua hàng hóa, dịch vụ liên quan khác;
Doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận bị suy giảm thị phần, gặp khó khăn trong giao kết hợp đồng, tiếp cận thị trường, mở rộng kinh doanh, buộc phải rời bỏ thị trường hoặc đứng trước nguy cơ chấm dứt hoạt động kinh doanh trên thị trường liên quan;
Doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận không có cơ hội tham gia hoặc thắng thầu trong các cuộc đấu thầu cung cấp hàng hóa, dịch vụ dù nguyên nhân bị loại không phải do năng lực và điều kiện của doanh nghiệp;
Doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận không thể hoặc gặp khó khăn trong tiếp cận, nắm giữ, sử dụng cơ sở hạ tầng thiết yếu hoặc cơ sở hạ tầng tương tự cho hoạt động kinh doanh;
Nghiên cứu, phát triển, đổi mới công nghệ hoặc năng lực công nghệ bị kiểm soát, nắm giữ bởi một số chủ thể mà không được đưa vào thực tiễn…
Theo quy định tại Điều 12 Luật Cạnh tranh năm 2018, tùy thuộc vào nội dung thỏa thuận hạn chế cạnh tranh mà có những trường hợp hậu quả là yếu tố phải được xem xét song cũng có những trường hợp hậu quả không phải là yếu tố bắt buộc. Cụ thể:
Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh mà hậu quả không phải là yếu tố bắt buộc bao gồm các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh quy định tại các khoản 11.4, 11.5 và 11.6. Trong những trường hợp này, vi phạm pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được coi hoàn thành khi hành vi thỏa thuận được thực hiện mà không cần xem xét đến hậu quả của hành vi đó.
Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh mà hậu quả là yếu tố cần phải xem xét trong cấu thành vi phạm pháp luật bao gồm các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có nội dung thỏa thuận quy định tại các khoản 11.7, 11.8, 11.9, 11.10 và 11.11. Trong những trường hợp này, hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chỉ cấu thành vi phạm pháp luật khi xác định được hành vi đó đã gây ra hoặc có khả năng tác động gây ra hạn chế cạnh tranh. Với quy định pháp luật hiện hành, mặc dù có xem xét đến hậu quả nhưng không nhất thiết phải là hậu quả thực tế. Luật Cạnh tranh 2018 cho phép cơ quan thực thi đánh giá khả năng tác động gây ra hạn chế cạnh tranh khi kết luận một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có vi phạm pháp luật hay không.
Đối với các nội dung thỏa thuận quy định tại các khoản 11.1, 11.2, 11.3 thì tùy từng trường hợp mà phải xem xét hoặc không cần xem xét đến hậu quả. Trường hợp các bên tham gia thỏa thuận là các chủ thể kinh doanh cùng trên thị trường liên quan (cạnh tranh theo chiều ngang) thì không đòi hỏi xem xét hậu quả của hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Trường hợp các bên tham gia thỏa thuận là các chủ thể kinh doanh ở các công đoạn khác nhau trong cùng một chuỗi sản xuất, phân phối, cung ứng đối với một loại hàng hóa, dịch vụ nhất định (cạnh tranh theo chiều dọc) thì yếu tố hậu quả cần phải được xem xét khi xác định vi phạm pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
 
Về mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả: để xác định vi phạm pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, trong trường hợp hậu quả là yếu tố cần phải được xem xét thì hậu quả như phân tích ở trên phải là kết quả của hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Trường hợp không xác định được hậu quả thực tế xảy ra, việc suy đoán khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh phải dựa trên cơ sở phân tích có cơ sở chắc chắn.
 3) Mặt chủ thể
 Vi phạm pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đòi hỏi phải có ít nhất hai chủ thể tham gia thỏa thuận trở lên. Chủ thể vi phạm pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là các tổ chức, cá nhân kinh doanh, được thành lập, kinh doanh hợp pháp, độc lập pháp lý khi tham gia thỏa thuận. Chủ thể thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể là các doanh nghiệp, các hợp tác xã, hộ kinh doanh, cá nhân tiến hành hoạt động kinh doanh dưới danh nghĩa một chủ thể độc lập về mặt pháp lý. Vì vậy, có một số lưu ý về chủ thể vi phạm pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh như sau:
 Trường hợp thỏa thuận hạn chế cạnh tranh vi phạm pháp luật có sự tham gia của công ty mẹ, công ty con, công ty thành viên trong cùng tập đoàn, tổng công ty thì công ty mẹ, công ty con, công ty thành viên vẫn là các chủ thể pháp lý độc lập3 trong thỏa thuận đó. Công ty mẹ, công ty con, công ty thành viên cùng thực hiện thỏa thuận hạn chế cạnh tranh vi phạm pháp luật thì cả công ty mẹ, công ty con, công ty thành viên phải chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi vi phạm. Trường hợp công ty mẹ mặc dù không tham gia thỏa thuận nhưng can thiệp (thông qua người đại diện) yêu cầu công ty con tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh vi phạm pháp luật thì công ty con phải chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi vi phạm. Trong trường hợp này, công ty mẹ, người quản lý công ty mẹ liên đới chịu trách nhiệm cùng công ty mẹ trong việc bồi thường những thiệt hại của công ty con do đã thực hiện vi phạm pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh dưới sự can thiệp của công ty mẹ4.
Trường hợp một văn phòng đại diện, chi nhánh, đơn vị kinh doanh phụ thuộc, nhân viên của doanh nghiệp tham gia quá trình thỏa thuận hạn chế cạnh tranh vi phạm pháp luật dưới danh nghĩa và nhân danh doanh nghiệp thì doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm đối với vi phạm đó vì những chủ thể này không phải là chủ thể pháp lý độc lập.
Trường hợp một doanh nghiệp, đại lý, hộ kinh doanh, cửa hàng… do những ràng buộc pháp lý của chủ thể tham gia thỏa thuận mà thực hiện các quy định, chỉ dẫn, yêu cầu của chủ thể đó thì những doanh nghiệp, đại lý, hộ kinh doanh, cửa hàng… đó không phải là chủ thể vi phạm pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Mặc dù là chủ thể độc lập về pháp lý song họ không tham gia vào quá trình liên hệ mà chỉ thực hiện nội dung thỏa thuận theo ý chí của chủ thể thỏa thuận.
 
Ngoài yếu tố độc lập về mặt pháp lý như phân tích ở trên, đối với từng dạng nội dung thỏa thuận, Luật Cạnh tranh 2018 có những yêu cầu riêng về mặt chủ thể. Cụ thể là:
Đối với vi phạm pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có nội dung thỏa thuận quy định tại các khoản 11.4, 11.5 và 11.6, pháp luật không đòi hỏi về điều kiện nào về mặt chủ thể thực hiện hành vi vi phạm. Điều đó có nghĩa là bất kỳ chủ thể kinh doanh nào thực hiện thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thuộc trường hợp quy định tại các khoản 11.4, 11.5 và 11.6 đều là chủ thể vi phạm pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Đối với các trường hợp còn lại (ngoài các khoản 11.4, 11.5 và 11.6), luật cạnh tranh đòi hỏi chủ thể vi phạm pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo hai trường hợp:
Thỏa thuận theo chiều ngang (khoản 1, khoản 3 Điều 12 Luật Cạnh tranh 2018), chủ thể tham gia thỏa thuận phải là các doanh nghiệp trên cùng thị trường liên quan.
Thỏa thuận theo chiều dọc (khoản 4 Điều 12 Luật Cạnh tranh 2018), chủ thể tham gia thỏa thuận là các doanh nghiệp các doanh nghiệp kinh doanh ở các công đoạn khác nhau trong cùng một chuỗi sản xuất, phân phối, cung ứng đối với một loại hàng hóa, dịch vụ nhất định.
4) Mặt chủ quan
Về yếu tố lỗi, vi phạm pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được thực hiện bởi lỗi cố ý. Điều đó có nghĩa là chủ thể vi phạm nhận thức được hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh do mình thực hiện là trái quy định của Luật Cạnh tranh (pháp luật bắt buộc phải biết), biết hoặc có khả năng biết được hậu quả do hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh gây ra cho thị trường và xã hội, tuy nhiên họ vẫn tham gia vào quá trình thỏa thuận. Điểm quan trọng nhất trong yếu tố lỗi của vi phạm pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là sự thống nhất ý chí cùng hành động giữa các chủ thể tham gia thỏa thuận. Đó không phải ý chí đơn lẻ của một chủ thể và ý chí tập thể để cùng thực hiện hành động vi phạm tập thể. Khi thực hiện hành vi thỏa thuận, họ có thể mong muốn hậu quả xảy ra (cố ý trực tiếp) hoặc không mong muốn nhưng để mặc hậu quả xảy ra (cố ý gián tiếp).
Động cơ, mục đích không phải là yếu tố bắt buộc trong cấu thành vi phạm pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Khi tham gia vào một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, mỗi chủ thể có thể theo đuổi những động cơ, mục đích khác nhau.
Chẳng hạn, có doanh nghiệp mong muốn thông qua thỏa thuận hạn chế cạnh tranh sẽ mở rộng được thị phần với động cơ là gia tăng lợi nhuận, nhưng có doanh nghiệp mong muốn loại bỏ đối thủ cạnh tranh cụ thể vì có động cơ tư thù…

tin mới cùng chuyên mục

Danh mục khác

Căn cứ Quyết định số 326/QĐ-CT ngày 16 tháng 10 năm 2024 của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia về việc thành lập Hội đồng tuyển dụng viên chức năm 2024, Hội đồng tuyển dụng thông báo như sau: Quyết định công nhận, bổ sung thí sinh đủ điều kiện tham dự V
Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia xin thông báo về việc chấm dứt hoạt động bán hàng đa cấp và đề nghị rút tiền ký quỹ của Công ty Cổ phần Đầu tư Sản xuất và Thương mại Sen Việt Group căn cứ quy định tại điểm a khoản 3 Điều 52 Nghị định 40/2018/NĐ