Theo nghĩa rộng bán lẻ trực tuyến là một hình thức phổ biến của hoạt động thương mại điện tử và được định nghĩa là “việc làm kinh doanh thông qua mạng internet, bán những hàng hoá và dịch vụ có thể được phân phối không thông qua mạng hoặc những hàng hoá có thể mã hoá bằng kỹ thuật số và được phân phối thông qua mạng hoặc không thông qua mạng”[1].
Bán lẻ trực tuyến là một cấu phần, một phương thức phổ biến của thương mại điện tử cho phép khách hàng trực tiếp mua hàng hoá, hoặc dịch vụ từ người bán qua Internet sử dụng các thiết bị khác nhau gồm máy tính để bàn, máy tính xách tay, máy tính bảng, điện thoại thông minh. Các nền tảng bán lẻ trực tuyến cho phép khách hàng, người mua sắm thông qua truy cập Internet và lựa chọn phương thức thanh toán hợp lệ để hoàn tất giao dịch như thanh toán bằng tiền mặt khi nhận hàng hoá, dịch vụ, thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ hoặc các ví điện tử.
Theo định nghĩa chung về thương mại điện tử của Liên minh châu Âu (EU), thì bán lẻ trực tuyến cũng là một hình thức của thương mại điện tử được hiểu là “hoạt động mua, bán hàng hóa, dịch vụ, giao hàng trực tuyến trên mạng với các nội dung số hóa được; hợp tác thiết kế và sản xuất; vận đơn điện tử – E/B/L; tìm kiếm các nguồn lực trực tuyến; marketing trực tiếp, dịch vụ khách hàng sau khi bán…”.
Nhìn chung, bán lẻ trực tuyến được hiểu có hai phương thức chính gồm: Thứ nhất là bán hàng trực tiếp từ nhà sản xuất thông qua nền tảng trực tuyến là việc bán hàng trực tiếp từ các website của các nhà sản xuất đến các khách hàng, phần lớn các nhà sản xuất này vận hành thương mại điện tử hỗn hợp, vừa bán hàng trực tiếp cho khách hàng vừa bán thông qua website. Thông thường, các doanh nghiệp này có thể hiểu rõ thị trường của họ vì quan hệ trực tiếp với người tiêu dùng và người tiêu dùng nhận được nhiều thông tin về sản phẩm thông qua quan hệ trực tiếp với nhà sản xuất; Thứ hai là bán lẻ trực tuyến thuần tuý là các công ty bán hàng trực tiếp đến người tiêu dùng qua internet mà không duy trì kênh bán hàng vật lý, nền tảng bán lẻ trực tuyến là phiên bản trực tuyến thay thế hoàn toàn cho cửa hàng bán lẻ trực tiếp, truyền thống, nơi khách hàng có thể mua sắm hàng hoá ngay tại nhà hoặc công sở vào bất kỳ thời gian nào, trong trường hợp này các doanh nghiệp bán lẻ trực tuyến thuần tuý có lợi thế liên quan đến tổng chi phí thấp và quá trình kinh doanh được tổ chức chuyên môn hoá cho việc bán lẻ thông qua internet. Như vậy, để thực hiện dịch vụ bán lẻ trực tuyến, doanh nghiệp phải sở hữu nền tảng bán lẻ trực tuyến hay cũng được hiểu là nền tảng thương mại điện tử để thực hiện hoạt động bán lẻ hàng hoá, dịch vụ.
Trong bán lẻ trực tuyến, hàng hoá và dịch vụ là các đối tượng được giao dịch. Theo khái niệm trong Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS), “hàng hoá” được giao dịch trong hoạt động bán lẻ trực tuyến là các loại sản phẩm sử dụng Internet, các nền tảng bán lẻ trực tuyến như một kênh cho dịch vụ phân phối, nhờ đó hàng hoá được mua trên mạng nhưng sau đó được cung cấp tới người tiêu dùng ở dạng không điện tử; “dịch vụ” được giao dịch trong hoạt động bán lẻ trực tuyến là các sản phẩm gồm 02 hình thức (i) dịch vụ được giao dịch, cung cấp tới người tiêu dùng ở dạng dòng thông tin được số hoá hoặc (ii) các dịch vụ được sử dụng dưới dạng hữu hình nhưng khách hàng có thể đặt mua và thanh toán trực tuyến trước khi được cung cấp tới khách hàng ở dạng trực tiếp”.
Tại Việt Nam, khái niệm “bán lẻ trực tuyến” không được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật mà được hiểu là một hình thức của hoạt động thương mại điện tử. Theo đó, Điều 3 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16 tháng 5năm 2013 của Chính phủ về thương mại điện tử quy định:
“Hoạt động thương mại điện tử là việc tiến hành một phần hoặc toàn bộ quy trình của hoạt động thương mại bằng phương tiện điện tử có kết nối với mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác”.
“Website thương mại điện tử (dưới đây gọi tắt là website) là trang thông tin điện tử được thiết lập để phục vụ một phần hoặc toàn bộ quy trình của hoạt động mua bán hàng hóa hay cung ứng dịch vụ, từ trưng bày giới thiệu hàng hóa, dịch vụ đến giao kết hợp đồng, cung ứng dịch vụ, thanh toán và dịch vụ sau bán hàng.”
“Sàn giao dịch thương mại điện tử là website thương mại điện tử cho phép các thương nhân, tổ chức, cá nhân không phải chủ sở hữu website có thể tiến hành một phần hoặc toàn bộ quy trình mua bán hàng hóa, dịch vụ trên đó.”
Khoản 3 Điều 1 Nghị định số 85/2021/NĐ-CP ngày 25 tháng 9 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 51/2013/NĐ-CP của Chính phủ về thương mại điện tử quy định:
“Dịch vụ thương mại điện tử là hoạt động thương mại điện tử theo đó thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ thương mại điện tử thiết lập website thương mại điện tử để cung cấp môi trường cho thương nhân, tổ chức, cá nhân khác tiến hành hoạt động xúc tiến thương mại, bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ.”
Có thể nói, bán lẻ trực tuyến có thể mở rộng và hiểu là các giao dịch mua bán hàng hoá, dịch vụ thông qua Internet, tuy nhiên Báo cáo nghiên cứu chỉ giới hạn tập trung vào việc phân tích cạnh tranh của hoạt động bán lẻ trực tuyến chính thống hình thức B2C khi các doanh nghiệp có sàn thương mại điện tử, ứng dụng mua hàng trực tuyến trên các thiết bị di động, điện thoại thông minh thông minh để cung cấp bán lẻ trực tuyến cho khách hàng, không bao gồm các nền tảng bán lẻ trực tuyến thông qua mạng xã hội tương tự như Facebook Marketplace hay Zalo Shop.
Đặc điểm cơ bản nhất của giao dịch bán lẻ trực tuyến đó là các hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ đều được thực hiện thông qua các phương tiện điện tử có kết nối với mạng toàn cầu, các bên tham gia bán và mua hàng hóa, dịch vụ không phải gặp gỡ trực tiếp về mặt không gian, thời gian mà vẫn có thể đàm phán, tìm hiểu thông tin, quảng cáo, tiếp thị và giao dịch.
Một trong những đặc điểm vượt trội của bán lẻ trực tuyến so với bán lẻ truyền thống (bán lẻ trực tiếp) đó là các giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ có thể được thực hiện vượt biên giới quốc gia. Thông qua các nền tảng bán lẻ trực tuyến, doanh nghiệp có thể giới thiệu, bán, cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng không chỉ trong phạm vi quốc gia mà là khắp nơi trên thế giới; và ngược lại người tiêu dùngcó thể tiếp cận thông tin, lựa chọn và mua hàng hoá, dịch vụ trên các nền tảng bán lẻ trực tuyến tại bất kỳ quốc gia nào.
Về mặt thời gian, các bên tham gia hoạt động bán lẻ trực tuyến có thể tiến hành giao dịch 24/7 ở bất kỳ thời gian nào trong điều kiện có các nền tảng điện tử giao dịch và kết nối với mạng viễn thông.
Để có thể thực hiện những giao dịch bán lẻ trực tuyến, các nền tảng ứng dụng thương mại điện tử như trang thông tin điện tử (website), các ứng dụng trên các thiết bị di động, điện thoại thông minh, các nền tảng mạng xã hội, kênh di động, thư điện tử,…là “cầu nối”, phương tiện thiết yếu giúp doanh nghiệp và khách hàng thực hiện việc mua bán, trao đổi hàng hoá. Các nền tảng bán lẻ trực tuyến được hoạt động phụ thuộc vào sự truyền dẫn thông tin kỹ thuật số thông qua mạng internet; do đó hoạt động bán lẻ trực tuyến luôn có sự tham gia của chủ thể thứ ba đó là các công ty, đơn vị cung cấp dịch vụ mạng cung cấp và thực hiện việc chuyển đi, kết nối, lưu giữ thông tin giữa các bên tham gia giao dịch bán lẻ trực tuyến, các cơ quan chứng thực có nhiệm vụ xác định độ tin cậy của các nền tảng bán lẻ trực tuyến, các thông tin trong giao dịch bán lẻ trực tuyến và các cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi, lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp bán lẻ trực tuyến cũng như người tiêu dùng khi tham gia mua hàng hoá, dịch vụ thông qua trực tuyến.
1. Quy trình hoạt động nền tảng bán lẻ trực tuyến
Trong thị trường truyền thống, người bán và người mua thực hiện giao dịch thông qua cửa hàng hoặc địa điểm bán lẻ hữu hình. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển công nghệ, nền tảng bán lẻ trực tuyến được ra đời và thay đổi cách thức hình thành giao dịch giữa các chủ thể trên thị trường. Theo đó, nền tảng bán lẻ trực tuyến được xem là bên thứ ba kết nối giữa người bán và người mua, tạo điều kiện thuận lợi, thúc đẩy quá trình giao dịch mua – bán.
Tại thời điểm thực hiện nghiên cứu, nền tảng bán lẻ tại Việt Nam bao gồm: (i) sàn thương mại điện tử và (ii) các ứng dụng bán lẻ (app) do doanh nghiệp cung ứng hàng hóa/dịch vụ sở hữu. Cách thức hoạt động của nền tảng bán lẻ trực tuyến tại Việt Nam tương tự như các nước trên thế giới[2] và được miêu tả cụ thể như sau:
Các sàn thương mại điện tử có quy trình hoạt động bao gồm các công đoạn lần lượt như sau:
- Người bán đăng ký gian hàng với doanh nghiệp sở hữu nền tảng;
- Nền tảng xem xét các điều kiện và cấp gian hàng cho người bán;
- Người bán đăng tải hàng hóa, dịch vụ lên gian hàng trên nền tảng;
- Người mua sử dụng nền tảng để mua hàng hóa/dịch vụ;
- Người bán cung cấp hàng hóa/dịch vụ cho người mua.
- Ứng dụng/website bán lẻ của doanh nghiệp có cửa hàng truyền thống
Đối với webite bán lẻ, quy trình được thực hiện thông qua các giai đoạn như sau:
- Doanh nghiệp xây dựng website bán lẻ trực tuyến;
- Người tiêu dùng truy cập website để mua hàng.
Đối với ứng dụng bán lẻ trực tuyến của doanh nghiệp có cửa hàng truyền thống, việc phát triển ứng dụng được thực hiện thông qua các giai đoạn như sau
- Doanh nghiệp phát triển ứng dụng;
- Doanh nghiệp đăng ký ứng dụng với bên vận hành ứng dụng;
- Bên vận hành ứng dụng chấp thuận và cho phép doanh nghiệp đăng tải ứng dụng;
- Doanh nghiệp phân phối ứng dụng thông qua nền tảng của bên vận hành;
- Khách hàng tải ứng dụng để sử dụng.
1.2. Tính chất của nền tảng bán lẻ trực tuyến
Tương tự như các nền tảng số, nền tảng bán lẻ trực tuyến có những tính chất như sau:
- Tác động mạng lưới của thị trường hai mặt
Nền tảng bán lẻ trực tuyến được xem là thị trường hai mặt với một mặt là người mua và mặt còn lại là người bán. Hoạt động kinh doanh của nền tảng bán lẻ trực tuyến dựa trên yếu tố cốt lõi là tác động mạng lưới (network effect), bao gồm: tác động trực tiếp và tác động gián tiếp (hoặc tác động chéo).
Tác động trực tiếp là tác động ở trên cùng một mặt. Tác động này xảy ra khi số lượng người dùng ở một mặt ảnh hưởng trực tiếp tới giá trị của nền tảng đối với người dùng mặt đó. Ví dụ, càng nhiều người mua sử dụng sàn giao dịch thương mại điện tử, thì lợi ích của người mua sẽ càng gia tăng.
Tác động gián tiếp là tác động chéo giữa các mặt với nhau. Tác động này xảy ra khi số lượng người dùng mặt này tác động tới giá trị nền tảng của người dùng mặt còn lại. Ví dụ, càng nhiều người bán tham gia sàn giao dịch thương mại điện tử thì người mua càng có nhiều lợi ích, do được tiếp cận nguồn cung đa dạng.
- Chi phí cận biên thấp và tính hiệu quả kinh tế theo quy mô
Nền tảng bán lẻ trực tuyến là thị trường mà trong đó giao dịch được hình thành dựa trên thông tin, dữ liệu và công nghệ. Do vậy, chi phí cận biên để cung cấp dịch vụ trên nền tảng bán lẻ được đánh giá là thấp[1]. Ngoài ra, khi mạng lưới được mở rộng tới mức độ đáng kể, nền tảng có thể đạt tính hiệu quả kinh tế theo quy mô.
- Lợi ích cho cả hai mặt
Thông qua việc sử dụng dữ liệu, thông tin, công nghệ cùng với các thuật toán, nền tảng bán lẻ trực tuyến mang lại lợi ích cho các chủ thể trên cả hai mặt của thị trường.
Về phía cầu, người tiêu dùng có khả năng tiếp cận đa dạng nguồn cùng, cũng như các dịch vụ hỗ trợ mua hàng từ nền tảng (dịch vụ bảo hành, đổi trả hàng, thanh toán và vận chuyển…).
Về phía cung, người bán sử dụng nền tảng bán lẻ trực tuyến như một công cụ nhằm phát triển hoạt động kinh doanh, cụ thể:
- Doanh nghiệp sử dụng nền tảng như là công cụ để thực hiện chiến dịch “chiếc đuôi dài”[2] từ đó có thể đạt tối đa hóa lợi nhuận.
- Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp mới thành lập (start – up), nền tảng có thể giúp cho các doanh nghiệp dễ dàng tham gia thị trường, tiếp cận khách hàng với mức chi phí hiệu quả hơn so với các phương thức truyền thống khác.
Thị trường nền tảng bán lẻ trực tuyến có đặc thù tương tự như các thị trường nền tảng số khác, bao gồm: (i) hiệu ứng mạng lưới giữa các mặt trên thị trường; (ii) tính hiệu quả kinh tế theo quy mô cũng như chi phí cận biên thấp; (iii) thị trường mang lại lợi ích cho các chủ thể sử dụng ứng dụng, từ đó gia tăng hiệu ứng mạng lưới.
2. Quy mô, cấu trúc thị trường nền tảng bán lẻ trực tuyến
Cấu trúc thị trường nền tảng bán lẻ trực tuyến khác biệt so với thị trường bán lẻ truyền thống. Theo đó, nguồn cung và nguồn cầu được gặp gỡ thông qua bên thứ ba (là các nền tảng bán lẻ trực tuyến). Điều này có nghĩa, cấu trúc thị trường nền tảng bán lẻ trực tuyến bao gồm: nguồn cung, nguồn cầu và nền tảng bán lẻ trực tuyến. Việc đánh giá quy mô thị trường nền tảng bán lẻ trực tuyến tại Việt Nam sẽ được đánh giá theo từng yếu tố nêu trên.
Việt Nam không chỉ được đánh giá là thị trường bùng nổ bán lẻ trực tuyến trong thời gian vừa qua mà còn được ước tính là thị trường tiềm năng phát triển lĩnh vực hoạt động bán lẻ trực tuyến cũng như thương mại điện tử trong thời gian tới.
- Nguồn cung
Chủ thể tham gia phía cung là các tổ chức, cá nhân kinh doanh đăng ký bán hàng trên các sàn th
Quy mô nguồn cung của thị trường bán lẻ trực tuyến được phản ánh chủ yếu thông qua thị trường thương mại điện tử B2C (giao dịch thương mại điện tử giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng). Trong thời gian vừa qua, tổng doanh thu thị trường thương mại điện tử B2C tại Việt Nam gia tăng mạnh mẽ, từ 5 tỷ USD năm 2016 tới 11,8 tỷ USD năm 2020. Tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử B2C sụt giảm từ năm 2019. Trong khoảng thời gian từ 2016 cho tới 2018, tốc độ tăng trưởng hàng năm gia tăng từ 23% (năm 2016) tới 30% (năm 2018). Tuy nhiên, tỷ lệ này giảm dần, đạt 25% năm 2019 và 18% năm 2020.
Biểu đồ 1: Doanh thu thị trường thương mại điện tử B2C tại Việt Nam
Mặc dù doanh thu thương mại điện tử B2C gia tăng mạnh mẽ như trên, nhưng đặt trong tương quan với hoạt động phân phối bán lẻ, thương mại điện tử B2C hiện nay chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 5% tổng doanh thu hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng toàn quốc.
Bảng 1: Tỷ trọng TMĐT so với doanh thu hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng toàn quốc
- Nguồn cầu
Nguồn cầu được phản ánh thông qua các chỉ số liên quan đến số lượng và sức mua của người mua sắm trực tuyến; các loại hàng hóa dịch vụ được mua sắm trực tuyến; và các chỉ số phản ánh tiềm năng phát triển của nguồn cầu tại thị trường Việt Nam.
Tổng số lượng người mua sắm trực tuyến
Trong thời gian vừa qua, số lượng người mua sắm hàng hóa, dịch vụ trực tuyến gia tăng mạnh mẽ, đạt 49,3 triệu năm 2020, gấp 1,5 lần so với năm 2016. Như vậy, trung bình mỗi năm, nguồn cầu tăng khoảng 4 triệu người.
Biểu đồ 2: Số lượng người mua sắm trực tuyến
Đơn vị: Triệu người
Giá trị mua sắm trực tuyến của mỗi cá nhân
Ngoài ra, mức trung bình trong giá trị mua sắm trực tuyến của mỗi người tiêu dùng cũng liên tục gia tăng, từ 170 USD (năm 2016) tới 240 USD (năm 2020). Tỷ lệ tăng trưởng trong giá trị trung bình mua sắm trực tuyến của mỗi cá nhân năm đạt 8,6%; 11,38% và 6,6% lần lượt trong các năm 2018, 2019 và 2020.
Biểu đồ 3: Ước tính giá trị mua sắm trực tuyến của cá nhân
Cơ cấu trong các mức chi tiêu của người tiêu dùng trực tuyến trong năm 2020 đã có sự dịch chuyển, phân bổ đều ở các mức 1 – 3 triệu đồng, 3 – 5 triệu đồng và trên 5 triệu đồng. Tỷ lệ người tiêu dùng ở các nhóm này đạt lần lượt là 28%, 27% và 29%. Số lượng người tiêu dùng trực tuyến chi tiêu mức thấp hơn 1 triệu đồng/1 năm sụt giảm chỉ còn 16% năm 2020.
Số lượng hàng hóa, dịch vụ mua sắm trực tuyến của mỗi cá nhân
Năm 2019, số lượng mua sắm trung bình của người tiêu dùng trực tuyến đạt ở mức 9 hàng hóa hàng hóa/dịch vụ trở xuống, 35% đối với nhóm 5 – 9 hàng hóa, 33% đối với nhóm dưới 5 hàng hóa. Tuy nhiên, trong thời kỳ đại dịch cũng như trong năm 2020, cơ cấu giữa các nhóm người tiêu dùng trực tuyến thay đổi. Đa số người tiêu dùng đều mua sắm trực tuyến trên 5 hàng hóa và phân bổ đều giữa các nhóm 5 – 9 hàng hóa; 10 – 15 hàng hóa và trên 15 hàng hóa. Tỷ lệ lần lượt là 27%, 24% và 29% trong năm 2020.
Biểu đồ 4: Số lượng hàng hóa, dịch vụ mua sắm trực tuyến của mỗi cá nhân
Các loại hình hàng hóa, dịch vụ được mua sắm trực tuyến
Thực phẩm; quần áo, dày dép và mỹ phẩm; thiết bị đồ gia đình là các nhóm hàng hóa chủ yếu khi người tiêu dùng mua hàng theo phương thức trực tuyến. Tỷ lệ người tiêu dùng mua sắm trực tuyến đối với các nhóm hàng hóa này lần lượt là 52%; 43% và 33%.
Các nhóm hàng hóa, dịch vụ nhận được sự quan tâm ít hơn từ người tiêu dùng trực tuyến là sách, văn phòng phẩm, hoa và quà tặng; vé máy bay, tàu hỏa, ô tô; đồ công nghệ và điện tử; vé xem phim ca nhạc. Tỷ lệ mua sắm của nhóm này ở mức 21% tới 26%.
Dịch vụ tư vấn, đào tạo trực tuyến; nhạc video DVD games; dịch vụ làm đẹp và spa là nhóm hàng hóa/dịch vụ ít được người dân Việt Nam mua sắm tiêu dùng trực tuyến nhất.
Tiềm năng phát triển cầu mua sắm trực tuyến
Việt Nam được đánh giá là quốc gia có tiềm năng phát triển thị trường mua sắm trực tuyến nhờ sự bùng nổ trong thói quen truy cập, sử dụng Internet của người dân.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, cũng như khoa học công nghệ, tỷ lệ người dân Việt Nam truy cập internet cũng như thời gian sử dụng internet ngày càng gia tăng. Tính tới tháng 1 năm 2021, có khoảng 68,72 triệu người dân Việt Nam sử dụng Internet[1], chiếm 70% dân số Việt Nam. Bên cạnh đó, với xu hướng sở hữu thiết bị di động cá nhân, việc truy cập mạng internet trở nên dễ dàng, không giới hạn thời gian, và không gian, từ đó gia tăng thời gian sử dụng mạng trung bình của người dân. Số lượng người truy cập internet bằng điện thoại di động lên tới 95% và lượng truy cập trung bình mỗi ngày khoảng 3 tiếng 18 phút[2].
Người dân truy cập internet để phục vụ nhiều mục đích khác nhau trong cuộc sống và công việc hàng ngày. Tuy nhiên, tại Việt Nam, đa số người dân truy cập internet để (i) tìm kiếm thông tin mua hàng (43%), (ii) tham gia diễn đàn, mạng xã hội (33%). Ngoài ra, tỷ lệ người mua sắm trực tuyến chiếm tới 88% số người sử dụng Internet trong năm 2020..
- Nền tảng bán lẻ trực tuyến
Trong phạm vi nghiên cứu này, nền tảng bán lẻ trực tuyến được xem là các sàn giao dịch thương mại điện tử và các ứng dụng bán lẻ trực tuyến. Với đặc thù tác động mạng lưới, lượng truy cập vào sàn thương mại điện tử được xem như là một chỉ số chứng tỏ việc hiệu quả trong kinh doanh, cũng như sự thu hút của nền tảng đối với các chủ thể trên thị trường.
Sàn giao dịch thương mại điện tử
Doanh nghiệp xây dựng ứng dụng/website trực tuyến nhằm tối đa hóa tiếp cận khách hàng trên thị trường.
Thị trường nền tảng bán lẻ trực tuyến tại Việt Nam là một trong các thị trường bán lẻ trực tuyến tiềm trong trong khu vực với quy mô cũng như tốc độ phát triển cao. Trên thị trường, các nền tảng bán lẻ trực tuyến bao gồm 2 loại: (i) sàn thương mại điện tử (cung cấp môi trường giao dịch cho người bán và người mua) và (ii) website/ứng dụng bán lẻ trực tuyến của các doanh nghiệp đã có cơ sở bán lẻ truyền thống.
Tuy nhiên, do tính hiệu ứng mạng lưới, sàn thương mại điện tử thi hút đông đảo người mua sử dụng nền tảng cũng như thực hiện các giao dịch mua bán trực tuyến hơn so với các website/ứng dụng của các doanh nghiệp đã có cơ sở bán lẻ truyền thống.
Tại thời điểm nghiên cứu, shopee là sàn thương mại điện tử có lượng truy cập mỗi tháng lớn nhất tại Việt Nam.
Hiện nay, các quy định về hoạt động bán lẻ trực tuyến được điều chỉnh chung bởi nền tảng pháp lý cho hoạt động thương mại điện tử tại Việt Nam mà chưa có những quy định, văn bản quy phạm pháp luật riêng rẽ đối với hoạt động nền tảng bán lẻ trực tuyến. Bên cạnh việc tuân thủ các quy định định pháp luật chung như đầu tư kinh doanh, thương mại, thuế, dân sự, các hoạt động và chủ thể tham gia trong lĩnh vực nền tảng bán lẻ trực tuyến phải tuân thủ các quy định pháp luật chuyên ngành trực tiếp điều chỉnh hoạt động thương mại điện tử.
Đáp ứng nhu cầu cấp thiết để phù hợp với sự thay đổi của bối cảnh kinh tế – xã hội, xu hướng hội nhập quốc tế và những bất cập của pháp luật hiện tại, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 đã được đưa vào chương trình sửa đổi, bổ sung. Trong bối cảnh phát triển hệ thống Internet và người tiêu dùng gia tăng sử dụng hoạt động bán lẻ trực tuyến, việc mua bán, hàng hóa dịch vụ thông qua các nền tảng bán lẻ trực tuyến phát triển nhanh chóng. Điều này mang lại nhiều thuận lợi nhưng cũng kèm theo đó là sự rủi ro trong các giao dịch mua hàng trực tuyến mà người tiêu dùng gặp phải. Theo báo cáo tổng hợp của Bộ Công Thương, các yêu cầu, phản ánh, khiếu nại của người tiêu dùng trong lĩnh vực nền tảng bán lẻ trực tuyến phổ biến gồm bán hàng giả, hàng đã qua sử dụng, hàng không rõ nguồn gốc, hàng hoá nhận được khác với quảng cáo; thông tin giao dịch của người tiêu dùng bị bên thứ ba lợi dụng để mạo danh giao hàng; tự động hủy đơn hàng; người tiêu dùng không mua được hàng theo giá quảng cáo hoặc hàng khuyến mãi đi kèm; kéo dài thời gian giải quyết khiếu nại hoặc không giải quyết khiếu nại kịp thời…
Theo đó, dự thảo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (sửa đổi) đã đưa ra nhiều quy định cụ thể hơn về “nền tảng số, nền tảng số trung gian, nền tảng trực tuyến” và “các hành vi bị cấm riêng đối với các tổ chức, cá nhân kinh doanh, thiết lập, vận hành, cung cấp dịch vụ nền tảng trực tuyến”. Dự thảo Luật quy định “Nền tảng số trung gian là nền tảng số cho phép tổ chức, cá nhân kinh doanh và người tiêu dùng tương tác để thực hiện một phần hoặc toàn bộ quy trình giao dịch đối với sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ.” Ngoài các quy định bị cấm đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh nói chung, Dự thảo Luật còn đưa ra những hành vi cấm cụ thể khác đối với nền tảng trung gian trực tuyến như: “Ép buộc hoặc ngăn cản người tiêu dùng đăng ký, sử dụng nền tảng trung gian trực tuyến khác như điều kiện bắt buộc để sử dụng dịch vụ; Hạn chế sự lựa chọn của người tiêu dùng thông qua việc sắp xếp ưu tiên lựa chọn sản phẩm, hàng hóa bất hợp lý giữa các tổ chức, cá nhân kinh doanh cung cấp trên nền tảng; Sử dụng các biện pháp ngăn hiển thị hoặc hiển thị không trung thực kết quả phản hồi, đánh giá của người tiêu dùng về sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ; tổ chức, cá nhân kinh doanh trên nền tảng; Sử dụng các biện pháp để ngăn cản đăng ký, hoạt động, đánh giá, hiển thị phản hồi của tổ chức xã hội tham gia bảo vệ người tiêu dùng; Ngăn cản người tiêu dùng gỡ bỏ các phần mềm, ứng dụng cài đặt sẵn hoặc buộc người dùng cài đặt các phần mềm, ứng dụng kèm theo nền tảng trực tuyến. ”
Có thể nói, giao dịch bán lẻ trực tuyến tạo ra rất nhiều lợi thế cho người bán hàng/ doanh nghiệp, hay nói cách khác, doanh nghiệp bán lẻ trực tuyến có vị trí tương đối thuận lợi so với người mua trực tuyến. Cụ thể là doanh nghiệp bán lẻ trực tuyến là những người trực tiếp tiếp cận với sản phẩm, do đó họ có kiến thức và thông tin tốt hơn về hàng hóa và dịch vụ mà họ đang cung cấp, trong khi người mua/ khách hàng mua trực tuyến là những người có khả năng tiếp cận sản phẩm hạn chế về mặt thông tin, chất lượng, v.v. Các quy định trong Dự thảo Luật sẽ góp phần đảm bảo quyền lợi, lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng khi tham gia vào các hoạt động mua bán, hàng hóa trên các nền tảng trực tuyến tại Việt Nam; hoàn thiện hơn khuôn khổ pháp lý điều chỉnh các hoạt động bán lẻ trên nền tảng trực tuyến; góp một phần gia tăng cạnh tranh lành mạnh, hiệu quả hơn giữa các doanh nghiệp trên thị trường.