1. Cơ sở pháp lý cho hoạt động thanh tra, kiểm tra việc thực hiện quy định pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
1.1. Khái niệm về hoạt động thanh tra, kiểm tra
Theo Từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2004 thì “Thanh tra là kiểm tra, xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp”. Trong cuốn sách “Thuật ngữ Pháp lý Phổ thông” do Nhà xuất bản Pháp lý in năm 1986, định nghĩa thanh tra được xem là một biện pháp (phương pháp) của kiểm tra. Nhiệm vụ thanh tra được uỷ quyền cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm. Thanh tra gắn liền với chức năng quản lý nhà nước. Để làm được nhiệm vụ, Thanh tra có thể dựa vào bộ máy chuyên môn của mình và quần chúng. Cơ quan Thanh tra có trách nhiệm xem xét các đơn thư khiếu nại, tố cáo để tìm kiếm những biện pháp giải quyết thoả đáng theo quy định. Ngoài thanh tra nhà nước còn có thanh tra chuyên ngành như thanh tra giao thông, tư pháp, tài nguyên khoáng sản, đất đai, …
Cũng theo Từ điển Tiếng Việt nêu trên thì: “Kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét”. Kiểm tra là chức năng của mọi chủ thể quản lý, không phân biệt ở cấp nào trong bộ máy quản lý nói chung và trong bộ máy quản lý nhà nước nói riêng. Tuy nhiên là ở các cấp bậc khác nhau thì quy mô kiểm tra cũng khác nhau và có những yêu cầu khác nhau. Kiểm tra gắn liền với công việc của một tổ chức nhất định, kiểm tra hướng tới việc xem xét tính hợp lý hay không hợp lý của một chương trình công tác đã vạch ra, khả năng thực hiện trong thực tế.
Như vậy, có thể thấy thanh tra có phạm vi hẹp hơn kiểm tra. Chủ thể thực hiện công tác thanh tra là các cơ quan nhà nước được giao quyền, còn kiểm tra là một hoạt động thường xuyên của mọi chủ thể quản lý. Trong quản lý nhà nước, khi nói đến kiểm tra còn phải nói đến kiểm tra nhà nước (hay kiểm tra mang tính nhà nước). Đó là việc kiểm tra chấp hành kỷ luật nhà nước, kỷ luật lao động, pháp chế và trật tự xã hội của các công chức, viên chức, của những người có chức vụ, quyền hạn và của công dân.
1.2. Phân biệt hoạt động thanh tra và kiểm tra
Giữa hoạt động thanh tra và kiểm tra có mối quan hệ chặt chẽ và có nhiều điểm giao thoa nhau. Bởi vì kiểm tra và thanh ra đều là những công cụ quan trọng, một chức năng chung của quản lý nhà nước, là hoạt động mang tính chất phản hồi của “chu trình quản lý”. Qua kiểm tra, thanh tra, các cơ quan quản lý nhà nước có thể phân tích đánh theo dõi quá trình thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ quản lý đề ra. Đây là mối quan hệ đan chéo nhau. Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì thanh tra là một loại hình đặc biệt của kiểm tra, ngược lại nếu hiểu theo nghĩa hẹp, thanh tra lại bao hàm cả kiểm tra. Các hoạt động thao tác nghiệp vụ trong một cuộc thanh tra như việc kiểm tra sổ sách, tài liệu của đối tượng thanh tra; so sánh đối chiếu, đánh giá tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình thanh tra… đó là kiểm tra. Trong thực tiễn, vẫn còn có sự nhầm lẫn, đồng nhất kiểm tra với thanh tra. Tuy nhiên với tư cách là một hoạt động độc lập, kiểm tra có nhiều điểm khác biệt với thanh tra:
Thứ nhất, về chủ thể tiến hành: Giữa kiểm tra và thanh tra có một mảng giao thoa về chủ thể, đó là Nhà nước. Nhà nước tiến hành cả hoạt động thanh tra và kiểm tra. Tuy nhiên, chủ thể của kiểm tra rộng hơn của thanh tra rất nhiều. Trong khi chủ thể tiến hành thanh tra phải là Nhà nước, thì chủ thể tiến hành kiểm tra có thể là Nhà nước hoặc có thể là chủ thể phi nhà nước, chẳng hạn như hoạt động kiểm tra của một tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội (Đảng, Công đoàn, Mặt trận, Phụ nữ, Đoàn thanh niên…), hay như hoạt động kiểm tra trong nội bộ một doanh nghiệp (có thể là doanh nghiệp nhà nước hoặc ngoài nhà nước).
Thứ hai, về mục đích thực hiện: Mục đích của thanh tra bao giờ cũng rộng hơn, sâu hơn đối với các hoạt động kiểm tra. Điều 2 Luật Thanh tra năm 2010 quy định: “Mục đích hoạt động thanh tra nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Đặc biệt, đối với các cuộc thanh tra để giải quyết khiếu nại, tố cáo thì sự khác biệt về mục đích, ý nghĩa giữa hoạt động thanh tra và kiểm tra càng rõ hơn nhiều, bởi: thông thường khiếu nại, tố cáo phản ánh sự bức xúc, bất bình của nhân dân trước những việc mà nhân dân cho là quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm cho nên mục đích của hoạt động thanh tra không còn chỉ là xem xét, đánh giá một cách bình thường nữa.
Kiểm tra là hoạt động thường xuyên của từng cơ quan Nhà nước, tổ chức chính tri – xã hội, tổ chức kinh tế… nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ của chính mình. Qua kiểm tra nhằm đánh giá đúng mực việc làm của mình, từ đó đề ra chủ trương, biện pháp, phương hướng hoạt động tiếp theo một cách hợp lý hơn. Trong trường hợp này, kiểm tra mang ý nghĩa xem xét, nhìn lại việc làm của chính mình để tự điều chỉnh, hay tìm biện pháp thực hiện nhiệm vụ tốt hơn hiệu quả hơn. Kiểm tra là hoạt động của cơ quan, tổ chức, thủ trưởng cấp trên với cấp dưới nhằm đánh giá mọi mặt hoặc từng vấn đề do cấp dưới đã thực hiện. Trong trường hợp này, kiểm tra thực hiện trong quan hệ trực thuộc, vì thế cơ quan hoặc thủ trưởng cấp trên sau khi kiểm tra có quyền áp dụng các biện pháp như: biểu dương, khen thưởng khi cấp dưới làm tốt hoặc các biện pháp cưỡng chế để xử lý đối với cấp dưới khi họ có khuyết điểm hoặc vi phạm pháp luật.
Thứ ba, về phương pháp tiến hành: Với mục đích rõ ràng hơn, rộng hơn, khi tiến hành thanh tra, Đoàn thanh tra cũng áp dụng những biện pháp nghiệp vụ sâu hơn, đi vào thực chất đến tận cùng của vấn đề như: xác minh, thu thập chứng cứ, đối thoại, chất vấn, giám định… Đặc biệt, quá trình thanh tra các Đoàn thanh tra có thể áp dụng những biện pháp cần thiết để phục vụ thanh tra theo quy định của pháp luật về thanh tra để tác động lên đối tượng bị quản lý.
Thứ tư, về thời hạn tiến hành: Thời hạn tiến hành kiểm tra có thể tùy thuộc vào tính chất, mức độ phức tạp của vấn đề kiểm tra và không được quy định cụ thể. Trong khi đó, thời hạn thực hiện mỗi cuộc thanh tra do các cơ quan thanh tra tiến hành được quy định chặt chẽ trong Luật Thanh tra, cụ thể đối với thanh tra hành chính được quy định: Cuộc thanh tra do Thanh tra Chính phủ tiến hành không quá 60 ngày, trường hợp phức tạp thì có thể kéo dài, nhưng không quá 90 ngày. Đối với cuộc thanh tra đặc biệt phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều địa phương thì thời hạn thanh tra có thể kéo dài, nhưng không quá 150 ngày. Cuộc thanh tra do Thanh tra tỉnh, Thanh tra bộ tiến hành không quá 45 ngày, trường hợp phức tạp thì có thể kéo dài, nhưng không quá 70 ngày. Cuộc thanh tra do Thanh tra huyện, Thanh tra sở tiến hành không quá 30 ngày; ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn thanh tra có thể kéo dài, nhưng không quá 45 ngày. Thời hạn của cuộc thanh tra được tính từ ngày công bố quyết định thanh tra đến ngày kết thúc việc thanh tra tại nơi được thanh tra. Việc kéo dài thời hạn thanh tra do người ra quyết định thanh tra quyết định.
Thứ năm, về trình độ nghiệp vụ: Hoạt động thanh tra đòi hỏi thanh tra viên phải có nghiệp vụ giỏi, am hiểu về kinh tế xã hội, có khả năng chuyên sâu về lĩnh vực thanh tra hướng đến. Do nội dung hoạt động kiểm tra ít phức tạp hơn thanh tra và chủ thể của kiểm tra bao gồm lực lượng rộng lớn có tính quần chúng phổ biến nên nói chung, trình độ nghiệp vụ kiểm tra không nhất thiết đòi hỏi như nghiệp vụ thanh tra. Do vậy, khi lập kế hoạch cũng như phê duyệt kế hoạch thanh tra của các cơ quan nhà nước, những cá nhân có thẩm quyền phải nghiên cứu một cách công phu, thân trọng, kỹ lưỡng, khách quan. Tuy nhiên sự phân biệt này chỉ có ý nghĩa tương đối. Trên thực tế, có những cuộc kiểm tra cũng có nội dung rất phức tạp.
Thứ sáu, về nội dung, phạm vi: Nội dung thanh tra thường phức tạp, đa dạng hơn so với nội dung kiểm tra. Do vậy, khi lập kế hoạch cũng như phê duyệt kế hoạch thanh tra, những cá nhân có thẩm quyền phải nghiên cứu một cách công phu, thân trọng, kỹ lưỡng, khách quan. Tuy nhiên sự phân biệt này mang ý nghĩa tương đối. Trên thực tế, cá biệt có những cuộc kiểm tra cũng rất phức tạp không hề đơn giản như: kiểm tra dấu hiệu vi phạm của các tổ chức Đảng, của Đảng viên theo Điều lệ Đảng và theo pháp luật của Nhà nước.
Phạm vi hoạt động kiểm tra thường theo bề rộng, diễn ra liên tục, ở khắp nơi với nhiều hình thức phong phú, mang tính quần chúng. Phạm vi hoạt động thanh tra thường hẹp hơn và được giới hạn trong quyết định thanh tra đã được ký ban hành.
Thứ bảy, về thời gian tiến hành: Trong hoạt động thanh tra thường có nhiều vấn đề phải xác minh, đối chiếu rất công phu, nhiều mối quan hệ cần được làm rõ, cho nên phải sử dụng thời gian nhiều hơn so với kiểm tra.
Tóm lại, thanh tra và kiểm tra tuy có sự phân biệt nhưng chỉ là tương đối. Khi tiến hành cuộc thanh tra, thường phải tiến hành nhiều thao tác nghiệp vụ đó thực chất là kiểm tra. Ngược lại, đôi khi tiến hành kiểm tra để làm rõ vụ việc, lại lựa chọn được nội dung thanh tra. Kiểm tra và thanh tra là hai khái niệm khác nhau nhưng có liên hệ qua lại, gắn bó. Do vậy, khi nói đến một khái niệm người ta thường nhắc đến cả cặp với tên gọi là thanh tra, kiểm tra hay kiểm tra, thanh tra. Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, kiểm tra và thanh tra có mối quan hệ mật thiết gắn bó với nhau, giữa chúng có sự giống nhau về mục đích nhưng lại khác nhau về một số điểm đã nêu trên. Tuy nhiên, việc phân biệt sự khác nhau giữa kiểm tra và thanh tra nhà nước chỉ mang tính tương đối, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn không nên tuyệt đối hóa sự phân biệt này mới thực hiện tốt được các cuộc thanh tra, kiểm tra đồng thời tránh được sai lầm khi tiến hành hoạt động thanh tra, kiểm tra. Sự phân biệt này góp phần quan trọng trong việc xây dựng, hoàn thiện chế định pháp luật về kiểm tra, thanh tra nhà nước đồng thời góp phần vào việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
1.4. Vai trò của hoạt động thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật trong quản lý nhà nước là một trong những hoạt động cơ bản của cơ quan quản lý nhà nước nhằm đảm bảo tính thượng tôn pháp luật, đảm bảo sự công bằng cho các cá nhân, tổ chức trong xã hội.
Việc thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật sẽ làm cho môi trường sản xuất kinh doanh bình đẳng hơn, lành mạnh hơn, góp phần phát triển bền vững kinh tế xã hội của đất nước.
Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, Bộ Công Thương cũng như các cơ quan thực thi pháp luật khác có chức năng thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực quản lý, cụ thể là lĩnh vực cạnh tranh, lĩnh vực bán hàng đa cấp, lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Từ năm 2017 đến nay, hàng năm Bộ Công Thương nói chung, cũng như Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia (trước đây là Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng) đã tiến hành hàng chục đoàn thanh tra nhằm đảm bảo việc thực thi đúng, minh bạch, rõ ràng của các văn bản pháp luật.
Ở địa phương thì UBND cấp tỉnh có thể phê duyệt, các Sở ban ngành liên quan (như Sở Công Thương, UBND cấp huyện, …) để thực hiện hoạt động thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Dưới đây xin hướng dẫn một số nội dung cụ thể liên quan đến hoạt động thanh tra và kiểm tra trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
2. Các hình thức tranh tra, kiểm tra trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Trong hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có hai hình thức thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm đó là Thanh tra thường xuyên (theo kế hoạch) và Thanh tra đột xuất.
2.1. Thanh tra thường xuyên
Thanh tra thường xuyên được tiến hành trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, được quy định cụ thể tại điều 36, Luật Thanh tra, cụ thể như sau:
- Hàng năm chậm nhất vào ngày 15 tháng 10 hằng năm, Tổng Thanh tra Chính phủ trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Định hướng chương trình thanh tra.
- Thủ tướng Chính phủ có trách nhiệm xem xét, phê duyệt Định hướng chương trình thanh tra chậm nhất vào ngày 30 tháng 10 hằng năm.
- Sau khi được phê duyệt, Định hướng chương trình thanh tra được Thanh tra Chính phủ gửi cho Bộ trưởng, Chủ tịch UBND cấp tỉnh.
- Căn cứ vào Định hướng chương trình thanh tra, Tổng Thanh tra Chính phủ có trách nhiệm lập kế hoạch thanh tra của Thanh tra Chính phủ và hướng dẫn Thanh tra bộ, Thanh tra tỉnh xây dựng kế hoạch thanh tra cấp mình.
- Chậm nhất vào ngày 15 tháng 11 hằng năm, Chánh Thanh tra bộ, Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc bộ, Chánh Thanh tra tỉnh căn cứ vào Định hướng chương trình thanh tra, hướng dẫn của Tổng Thanh tra Chính phủ và yêu cầu công tác quản lý của bộ, cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc bộ, UBND cấp tỉnh trình Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp phê duyệt kế hoạch thanh tra.
- Bộ trưởng, Chủ tịch UBND cấp tỉnh có trách nhiệm xem xét, phê duyệt kế hoạch thanh tra chậm nhất vào ngày 25 tháng 11 hằng năm.
- Chậm nhất vào ngày 05 tháng 12 hằng năm, Chánh Thanh tra sở, Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc sở, Chánh Thanh tra huyện căn cứ vào kế hoạch thanh tra của Thanh tra bộ, Thanh tra tỉnh và yêu cầu công tác quản lý của sở, cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc sở, UBND cấp huyện trình Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp phê duyệt kế hoạch thanh tra.
Giám đốc sở, Chủ tịch UBND cấp huyện có trách nhiệm xem xét, phê duyệt kế hoạch thanh tra chậm nhất vào ngày 15 tháng 12 hằng năm.
Kế hoạch thanh tra này được gửi cho đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ chức có liên quan.
2.2. Thanh tra đột xuất
Thanh tra đột xuất được tiến hành khi phát hiện cơ quan, tổ chức, cá nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật, theo yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng hoặc do Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền giao.
2.3. Kiểm tra
Đối với hoạt động kiểm tra không có quy định cụ thể về kiểm tra đột xuất hay kiểm tra thường xuyên, mà chỉ đơn thuần là kiểm tra việc tuân thủ các quy định của pháp luật, quy trình thực hiện các nhiệm vụ của cấp trên với cấp dưới. Các quy định về thủ tục cách thức tiến hành một đoàn thanh tra thường chặt chẽ hơn so với đoàn kiểm tra.
3. Một số nội dung cần lưu ý đối với hoạt động thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
3.1. Phạm vi thanh tra
Đối với đoàn thanh tra của cấp Bộ được phép thanh tra các doanh nghiệp hoạt động trên phạm vi cả nước.
Đối với đoàn thanh tra của cấp Tỉnh được phép thanh tra, kiểm tra hoạt động của doanh nghiệp trên phạm vi của tỉnh mình.
3.2. Thời gian thanh tra
Thời gian tiến hành thanh tra đã được quy định trong quyết ban hành kế hoạch thanh tra hàng năm của từng Bộ ngành và địa phương. Kế hoạch thanh tra này cũng được gửi cho đối tượng bị thanh tra biết cùng phối hợp.
3.3. Địa điểm thanh tra
Địa điểm tiến hành thanh tra là tại nơi của đối tượng thanh tra tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, thông thường là tại trụ sở chính, các công ty thành viên, công ty góp vốn, nơi đặt văn phòng giới thiệu, bán sản phẩm trực tiếp với người tiêu dùng.
3.4. Đơn vị phối hợp
Căn cứ vào đối tượng thanh tra hoạt động trong lĩnh vực gì, lúc đó cơ quan chủ trì đoàn thanh tra sẽ mời thành viên là các đơn vị có liên quan để có thể có đánh giá toàn diện đầy đủ tình hình tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp.
Ví dụ, khi Bộ Công Thương thành lập Đoàn thanh tra việc thực hiện/ tuân thủ quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại một Tập đoàn viễn thông nào đó, thì: ngoài thành viên của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, đoàn thanh tra có thể mời thêm thành viên đại diện của Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số – Bộ Công Thương để rà soát việc tuân thủ quy định về đăng ký Website bán hàng, mời thành viên là Cục Xúc tiến thương mại – Bộ Công Thương để rà soát việc tuân thủ quy định về khuyến mại cho người tiêu dùng, mời thành viên của Cục Viễn thông – Bộ Thông tin Truyền thông để rà soát việc tuân thủ pháp luật viễn thông, mời đại diện của Sở Công Thương địa phương nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính để xem việc tuân thủ các vấn đề liên quan tại địa phương, …
3.5. Nội dung thanh tra
Tùy theo thành phần đoàn thanh tra bao gồm các đơn vị nào mà trưởng đoàn thanh tra lên kế hoạch thanh tra bao gồm những nội dung đó, tuy nhiên, do đặc trưng là đoàn thanh tra về pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cho nên các nội dung cơ bản là trách nhiệm của doanh nghiêp đối với người tiêu dùng theo quy định của luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và các văn bản hướng dẫn. Ngoài ra, tùy theo thành phần đoàn có đại diện của đơn vị nào, đoàn thanh tra sẽ yêu cầu các câu hỏi bổ sung về lĩnh vực đó.
3.6. Đối tượng thanh tra
- Đoàn thanh tra của Bộ Công Thương: Các tổ chức cá nhân, hoạt động sản xuất kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam; Cơ quan bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng các tỉnh/thành phố trên cả nước; Các Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên cả nước
- Đoàn thanh tra cấp tỉnh (Sở Công Thương): Các tổ chức cá nhân, hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh; Cơ quan bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cấp huyện xã; Các Hội Bảo vệ người tiêu dùng trong phạm vi của tỉnh.
4. Một số nội dung cần rà soát khi tiến hành thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp trong việc thực thi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng
Nội dung thanh tra và kiểm tra việc tuân thủ pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đối với các doanh nghiệp về cơ bản là giống nhau, đều là so sánh đối chiếu việc tuân thủ pháp luật người tiêu dùng của doanh nghiệp đã đúng chưa đã đầy đủ chưa. Chỉ có điều việc tiến hành đoàn thanh tra sẽ chặt chẽ hơn, yêu cầu làm kỹ hơn, thời gian lâu hơn so với các đoàn kiểm tra.
Sau đây là các nội dung cơ bản trong việc rà soát yêu cầu của các đoàn thanh tra, kiểm tra về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đối với các doanh nghiệp:
4.1. Về thông tin chung của doanh nghiệp
Đối với việc thanh tra, kiểm tra cần yêu cầu những nội dung cơ bản sau để có cách nhìn toàn điện về đối tượng của đợt thanh tra:
- Giấy tờ cá nhân của người người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Trường hợp ủy quyền, cung cấp kèm theo bản gốc Giấy ủy quyền hợp lệ, trong đó, có nội dung nêu rõ người được ủy quyền được quyền ký các biên bản làm việc, bao gồm cả biên bản vi phạm hành chính (nếu có) và các văn bản khác phát sinh trong quá trình làm việc với Đoàn thanh tra, kiểm tra.
- Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (cấp lần đầu và các lần chỉnh sửa, bổ sung (nếu có)).
- Cơ cấu tổ chức: Trụ sở chính, chi nhánh, công ty con, công ty liên kiết, liên doanh, …
- Danh mục sản phẩm/dịch vụ doanh nghiệp cung cấp.
- Báo cáo hoạt động năm gần nhất của doanh nghiệp.
4.2. Về chính sách bảo vệ thông tin của người tiêu dùng
Cần đề nghị doanh nghiệp cung cấp được các tài liệu/thông tin quy định về thu thập, sử dụng, chuyển giao thông tin của người tiêu dùng (nêu rõ: tài liệu được sử dụng nội bộ hay được công bố công khai? địa điểm công bố tương ứng? …)
4.3. Về chính sách cung cấp thông tin cho người tiêu dùng
- Danh sách các kênh cung cấp thông tin (website, facebook, điện thoại, email…).
- Tài liệu về các điều kiện, điều khoản, chính sách chung áp dụng cho khách hàng khi tham khảo/sử dụng các kênh cung cấp thông tin tương ứng của doanh nghiệp (ví dụ: chính sách bảo mật, chính sách sử dụng, quy chế, điều kiện, điều khoản sử dụng các dịch vụ…).
- Tài liệu/nội dung quảng cáo/giới thiệu về các dịch vụ cung cấp cho người tiêu dùng trên các kênh cung cấp thông tin của doanh nghiệp (Các bản in thông tin từ trên website, facebook…tờ rơi giới thiệu…).
- Tài liệu đào tạo nhân viên khi thực hiện tư vấn/cung cấp/ký hợp đồng sử dụng các dịch vụ với người tiêu dùng.
4.4. Về việc sử dụng hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung
- Yêu cầu báo cáo tình hình thực hiện nghĩa vụ đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung theo quy định của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, kèm theo văn bản, tài liệu liên quan.
- Yêu cầu mỗi nhóm sản phẩm, dịch vụ cung cấp cho khách hàng là cá nhân và/hoặc doanh nghiệp (mục đích tiêu dùng), cung cấp báo cáo như sau: Báo cáo tình hình ký kết hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung với người tiêu dùng thời kỳ ngày tháng năm đến thời điểm thanh tra, kiểm tra, báo cáo cụ thể số lượng hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung đã ký kết với người tiêu dùng tương ứng với từng nhóm sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp.
- Yêu cầu với mỗi nhóm sản phẩm, dịch vụ, cung cấp ba bộ hợp đồng, bao gồm: một bộ hợp đồng mẫu sử dụng để cung cấp cho người tiêu dùng nghiên cứu trước khi ký kết; một bộ hợp đồng đã ký kết thực tế với người tiêu dùng; một bộ hợp đồng đã ký kết với người tiêu dùng (thời gian ký gần nhất (có thể ấn đinh thời gian) tính tới thời điểm thanh tra, kiểm tra).
4.5. Về quy trình ký hợp đồng
Cần làm rõ các nội dung sau:
- Tài liệu mô tả quy trình từ tư vấn, ký hợp đồng, cung cấp hợp đồng, tài liệu khi người tiêu dùng ký kết sử dụng các dịch vụ cá nhân tương ứng.
- Cung cấp thông tin/tài liệu minh họa việc tạo điều kiện cho người tiêu dùng xem xét, nghiên cứu hợp đồng trước khi ký kết sử dụng các nhóm dịch vụ cung cấp cho người tiêu dùng
- Các hình thức, phương thức và quy trình cung cấp thông tin cho người tiêu dùng khi có sự thay đổi liên quan đến dịch vụ/điều kiện, điều khoản/phí, lệ phí, hợp đồng của dịch vụ mà người tiêu dùng đang sử dụng
4.6. Về giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng
- Danh mục các phương thức tiếp nhận khiếu nại.
- Tài liệu về quy trình/quy định tiếp nhận và giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng, kèm theo các tài liệu phát sinh trong quá trình tiếp nhận, giải quyết khiếu nại (ví dụ: tài liệu đào tạo/hướng dẫn nhân viên, …).
- Báo cáo số lượng, kết quả, chi tiết khiếu nại.
- Bảng báo cáo tóm tắt gồm các thông tin: Nhóm nội dung khiếu nại, Số lượng tương ứng, Kết quả giải quyết/Tỷ lệ giải quyết.
Trên đây là một số nội dung cơ bản cho các đoàn thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp, trên thực tế đối với mỗi loại hình doanh nghiệp cụ thể ta có thể thêm hoặc bớt nội dung cho phù hợp với tính chất và đặc điểm của doanh nghiệp.