Kế hoạch điều tra vụ việc lạm dụng vị trí thống lĩnh, độc quyền
1. Xác định đối tượng chứng minh và chứng cứ
Những nhóm vấn đề cần chứng minh trong vụ việc lạm dụng vị trí thống lĩnh, độc quyền
Nhóm các vấn đề làm rõ vị trí trên thị trường của doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp bị điều tra: Doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp bị điều tra có vị trí thống lĩnh, doanh nghiệp bị điều tra có vị trí độc quyền trên thị trường liên quan hay không? Để làm rõ được vấn đề này cần định nghĩa được thị trường liên quan trong vụ việc là gì? Thị phần của doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp bị điều tra là bao nhiêu? Hoặc doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp bị điều tra có sức mạnh thị trường hay không?
Nhóm vấn đề về hành vi vi phạm: Hành vi nào doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp bị điều tra đã thực hiện? Hành vi đó có bị cấm theo điều, khoản nào của Luật Cạnh tranh? Đối tượng tác động của hành vi vi phạm là gì? Hàng hóa, dịch vụ nào thuộc phạm vi bị tác động? Hành vi vi phạm được thực hiện như thế nào? Bắt đầu từ khi nào? Đã kết thúc hay vẫn đang diễn ra?
Nhóm vấn đề về hậu quả của hành vi lạm dụng vị trí, bao gồm những thiệt hại gây ra cho bên khiếu nại (nếu có): Những doanh nghiệp, tập người tiêu dùng nào chịu ảnh hưởng của hành vi lạm dụng vị trí? Ngoài bên khiếu nại (nếu có) còn những doanh nghiệp, khách hàng nào khác bị ảnh hưởng không? Hậu quả cụ thể là gì? Hậu quả đó có tương ứng với hành vi theo mô tả của Luật Cạnh tranh 2018 hay không? Mức độ thiệt hại cụ thể như thế nào?
Các tình tiết xác định trách nhiệm của chủ thể vi phạm: xác định tương tự trương hợp thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Nguyên nhân, điều kiện của vi phạm: xác định tương tự trường hợp thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Trong các nhóm vấn đề cần chứng minh nêu trên, nhóm vấn đề thứ nhất (1) sẽ được trình bày cụ thể trong phần sau của tài liệu này. Các vấn đề thứ tư (4) và thứ (5) được xác định tương tự như trường hợp thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.Trong phần sau đây, chúng ta tập trung nghiên cứu nhóm vấn đề thứ hai (2) và vấn đề thứ ba (3). Để thuận tiện cho việc theo dõi, chúng ta sẽ nghiên cứu cả hai vấn đề này đồng thời xác định những chứng cứ cần phải thu thập để làm rõ những vấn đề đó.
1.1. Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến loại bỏ đối thủ cạnh tranh
Giá thành toàn bộ của hàng hóa, dịch vụ được quy định tại khoản 12 Điều 4 Luật Giá năm 2012 như sau:
Giá thành toàn bộ của hàng hoá, dịch vụ là giá thành tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ, bao gồm:
Giá thành sản xuất hàng hóa, dịch vụ; giá mua hàng hoá, dịch vụ đối với tổchức, cá nhân hoạt động thương mại;
Chi phí lưu thông để đưa hàng hoá, dịch vụ đến người tiêu dùng.
Thông tư số 25/2014/TT-BTC ngày 07/02/2014 của Bộ Tài chính “quy định phương pháp định giá chung đối với hàng hóa, dịch vụ”20 có hướng dẫn cụ thể phương pháp xác định giá thành toàn bộ của hàng hóa như sau:
Bảng tính chi phí và giá thành toàn bộ hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu
STT Nội dung chi phí Ký hiệu
A Sản lượng nhập khẩu Q
B Giá vốn nhập khẩu Gv
1 Giá mua tại cửa khẩu Việt Nam (giá CIF) GCIF
2 Thuế nhập khẩu TNK
3 Thuế tiêu thụ đặc biệt (nếu có) TTTĐB
4 Các khoản thuế, phí khác (nếu có) T,Pkhác
5 Các khoản chi bằng tiền khác theo quy định (nếu có) Ckhác
C Chi phí chung
6 Chi phí tài chính (nếu có) CTC
7 Chi phí bán hàng CBH
8 Chi phí quản lý CQL
D Tổng chi phí TC
Đ Giá thành toàn bộ 01 (một) đơn vị sản phẩm TC/Q Zđv
Bảng tính chi phí và giá thành toàn bộ hàng hóa, dịch vụ sản xuất,
kinh doanh trong nước
STT Nội dung chi phí Ký hiệu
A Sản lượng tính giá Q
B Chi phí sản xuất, kinh doanh C
I Chi phí trực tiếp: CTT
1 Chi phí nguyên liệu, vật liệu, công cụ, dụng cụ, nhiên liệu, năng lượng trực tiếp CVT
2 Chi phí nhân công trực tiếp CNC
3 Chi phí khấu hao máy móc thiết bị trực tiếp (trường hợp được trích khấu hao) CKH
4 Chi phí sản xuất, kinh doanh (chưa tính ở trên) theo đặc thù của từng ngành, lĩnh vực CK
II Chi phí chung CC
5 Chi phí sản xuất chung (đối với doanh nghiệp) CCM
6 Chi phí tài chính (nếu có) CTC
7 Chi phí bán hàng CBH
8 Chi phí quản lý CQL
Tổng chi phí sản xuất, kinh doanh TC
C Chi phí phân bổ cho sản phẩm phụ (nếu có) CP
D Giá thành toàn bộ (TC-CP) Z
Đ Giá thành toàn bộ 01 (một) đơn vị sản phẩm (TC-CP)/Q Zđv
Các nội dung chi phí cụ thể, anh/chị có thể nghiên cứu thêm trong Thông tư số 25/2014/TT-BTC nói trên. Ngoài ra, tại khoản 6 Điều 11 Luật Giá năm 2012 về quyền của tổ chức, cá nhân kinh doanh có quy định:
Hạ giá bán hàng hóa, dịch vụ mà không bị coi là vi phạm pháp luật về cạnh tranh và pháp luật chống bán phá giá hàng nhập khẩu, đồng thời phải niêm yết công khai tại nơi giao dịch về mức giá cũ, mức giá mới, thời hạn hạ giá đối với các trường hợp sau:
Hàng tươi sống;
Hàng hóa tồn kho;
Hàng hóa, dịch vụ theo mùa vụ;
Hàng hóa, dịch vụ để khuyến mại theo quy định của pháp luật;
Hàng hóa, dịch vụ trong trường hợp doanh nghiệp phá sản, giải thể; thay đổi địa điểm, ngành nghề sản xuất, kinh doanh;
Hàng hóa, dịch vụ khi thực hiện chính sách bình ổn giá của Nhà nước.
Như vậy, việc bán hàng hóa, cung cấp dưới giá thành toàn bộ đối với các trường hợp nêu tại khoản 6 Điều 11 Luật Giá 2012 sẽ không bị coi là vi phạm pháp luật về cạnh tranh.
Với những quy định liên quan đã được tìm hiểu, để chứng minh hành vi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ dưới giá thành toàn bộ, Cơ quan Điều tra vụ việc cạnh tranh cần làm rõ những vấn đề và thu thập các chứng cứ như sau:
Đối tượng chứng minh Chứng cứ
Hàng hóa, dịch vụ được xem xét có Mẫu hàng hóa; bản mô tả về dịch vụ thuộc trường hợp bị loại trừ vi được bán, cung cấp
phạm pháp luật về cạnh tranh theo Luật Giá hay không?
– Hàng tươi sống Mã HS hàng tươi sống; Văn bản kiểm
nghiệm; Các tài liệu chứng minh quá
trình thu lượm, trồng, nuôi…
– Hàng hóa tồn kho Sổ kế toán chi tiết; Thẻ kho; Báo cáo
hàng tồn kho; Biên bản thanh lý/quyết
định xử lý hàng tồn kho
– Hàng hóa, dịch vụ theo mùa vụ Biên bản làm việc, tham vấn chuyên
môn của các cơ quan quản lý chuyên
ngành hoặc chuyên gia
– Hàng hóa, dịch vụ dùng khuyến mại Hồ sơ đăng ký chương trình khuyến
mại; Xác nhận của Sở Công Thương
hoặc Bộ Công Thương về việc đăng ký
chương trình khuyến mại.
– Hàng hóa thanh lý do doanh nghiệp Hồ sơ, tài liệu về việc phá sản, giải thể
phá sản, giải thể doanh nghiệp; Biên bản hoặc quyết
định thanh lý tài sản
– Hàng hóa, dịch vụ khi thực hiện chính Quyết định của cơ quan có thẩm quyền
sách bình ổn giá của Nhà nước về việc thực hiện chính sách bình ổn
giá
Giá bán hàng hóa, giá dịch vụ có liên quan trong vụ việc?
Biên bản các cuộc họp cấp quản lý doanh nghiệp về quyết định giá hàng hóa, dịch vụ;
Bảng giá hàng hóa, dịch vụ áp dụng tại
doanh nghiệp;
Thông báo giá/bản chào giá gửi đến
các đối tác;
Hóa đơn GTGT; Hóa đơn bán hàng;
Sổ kế toán: Sổ (phần) nhật ký chung;
Sổ nhật ký bán hàng; Sổ chi tiết doanh
thu…
(3) Giá thành toàn bộ của hàng hóa, Các bảng tính giá thành hàng hóa, dịch
dịch vụ có liên quan tại doanh vụ liên quan;
nghiệp bị điều tra? Sổ sách, biểu kế toán: Sổ nhật ký
chung; Sổ nhật ký mua hàng; Sổ chi
tiết hàng tồn kho; Sổ chi tiết chi phí;
Phiếu nhập kho; Thẻ kho; Các chứng
từ kế toán liên quan đến giá vốn hàng
hóa, dịch vụ và các chi phí liên quan;
Các báo cáo kế toán liên quan đến hàng
hóa, dịch vụ liên quan
Một vấn đề cần lưu ý tại doanh nghiệp bị điều tra có thể có nhiều mức giá bán khác nhau như giá bán lẻ trực tiếp, giá bán buôn thông thường, giá giao cho đại lý… Mức giá bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cần sử dụng để đánh giá là mức giá bán thực tế của doanh nghiệp bị điều tra chứ không phải giá thị trường hay giá suy định. Mức giá được sử dụng phải là giá áp dụng cho các khách hàng giao dịch trực tiếp với doanh nghiệp bị điều tra.
Khi so sánh giữa giá bán nói trên và giá thành toàn bộ phải có sự tương ứng về đối tượng tính giá và kỳ tính giá. Đối tượng tính giá có thể từng đơn vị hàng hóa, từng lô hàng, từng ca máy, thời gian cung cấp dịch vụ… Kỳ tính giá có thể theo ngày, tuần, tháng hoặc khi hoàn thành công trình xây dựng. Khi xác định giá bán và giá thành toàn bộ phải có sự thống nhất về đối tượng tính giá và kỳ tính giá. Do đó khi thu thập các tài liệu, chứng cứ về giá được áp dụng phải làm rõ về đơn vị tính và thời gian áp dụng mức giá đó. Trên cơ sở đó, thu thập các tài liệu xác định giá thành toàn bộ tương ứng với đơn vị tính và kỳ tính giá.
Kết quả so sánh có thể xảy ra nhiều trường hợp: (1) Trong thời gian xem xét, toàn bộ các mức giá bán đều thấp hơn giá thành toàn bộ tương ứng thì kết luận doanh nghiệp đã bán dưới giá thành toàn bộ trong cả kỳ vi phạm. (2) Ngược lại, trong thời gian xem xét, toàn bộ các mức giá bán đều cao hơn giá thành toàn bộ tương ứng thì kết luận doanh nghiệp không bán dưới giá thành toàn bộ.
Trường hợp có giai đoạn giá bán thấp hơn, có giai đoạn cao hơn giá thành toàn bộ thì kết luận doanh nghiệp vi phạm trong giai đoạn có giá bán thấp hơn.
Cùng với việc làm rõ hành vi, trong điều tra vụ việc liên quan đến bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ còn phải chứng minh hậu quả của hành vi đó. Hành vi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ chỉ bị coi là vi phạm pháp luật về cạnh tranh khi loại bỏ hoặc có khả năng loại bỏ đối thủ cạnh tranh.
Theo mô tả của khoản 1 Điều 27 Luật Cạnh tranh 2018, hậu quả đối thủ cạnh tranh bị loại bỏ của hành vi vi phạm về bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ có thể được xem xét ở cả khía cạnh hậu quả đó đã xảy ra trên thực tế hoặc chưa xảy ra nhưng có căn cứ để xác định hậu quả đó sẽ xảy ra. Nhìn chung, trong trường hợp hậu quả đã xảy ra việc chứng minh sẽ thuận lợi hơn vì có thể tìm được những chứng cứ trực tiếp. Trường hợp hậu quả chưa xảy ra hoặc không đủ chứng cứ trực tiếp để chứng minh hậu quả thực tế đã xảy ra thì cần thu thập được các chứng cứ gián tiếp để đánh giá khả năng các đối thủ cạnh tranh bị loại bỏ khỏi thị trường. Tuy nhiên, quy định pháp luật không quy định cụ thể cần bao nhiêu đối thủ cạnh tranh bị loại bỏ hoặc có khả năng bị loại bỏ khỏi thị trường. Do đó, nếu chứng minh được một hoặc một số đối thủ thực tế phải rời bỏ thị trường do hành vi bán hàng, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ là có thể kết luận về hành vi vi phạm.
Trường hợp có hậu quả đã xảy ra, có nghĩa là thực tế có đối thủ cạnh tranh bị loại bỏ khỏi thị trường thì cần làm rõ lý do doanh nghiệp đó rời khỏi thị trường. Chứng cứ cần thu thập là lời tường trình của người đại diện doanh nghiệp đã rời khỏi thị trường. Bên cạnh đó, cần thu thập các tài liệu do doanh nghiệp này cung cấp để làm rõ về giá thành hàng hóa, dịch vụ mà họ cung cấp trên thị trường liên quan cũng như các giải pháp, nỗ lực họ đã áp dụng để hạ giá thành, mở rộng thị trường, gia tăng doanh thu. Chứng minh những nỗ lực đó thất bại là do không thể cạnh tranh với doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp bị điều tra.
Trường hợp chưa có hậu quả thực tế xảy ra hoặc không có chứng cứ để chứng minh hậu quả thực tế xảy ra thì cần xác định số lượng doanh nghiệp hay mức độ tập trung của thị trường liên quan trước, trong và sau khi xảy ra hành vi vi phạm. Thứ nữa, cần làm rõ sự thay đổi về giá hàng hóa, dịch vụ trong các giai đoạn đó. Thông thường, sau khi đã củng cố vị trí trên thị trường liên quan, doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp vi phạm sẽ tăng giá cao hơn rất nhiều so với trước khi xảy ra vi phạm nhằm bù đắp những khoản lợi nhuận họ đã phải “hi sinh”. Các tài liệu thống kê là những chứng cứ cần phải thu thập để làm rõ vấn đề này.
1.2. Áp đặt giá mua hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý gây ra hoặc có khả năng gây ra thiệt hại cho khách hàng
Điều 27 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/09/2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh 2004 (Nghị định 116/2005/NĐ-CP)21 có quy định như sau:
Hành vi áp đặt giá mua hàng hóa, dịch vụ được coi là bất hợp lý gây thiệt hại cho khách hàng nếu giá mua tại cùng thị trường liên quan được đặt ra thấp hơn giá thành sản xuất hàng hóa, dịch vụ trong điều kiện sau đây:
Chất lượng hàng hóa, dịch vụ đặt mua không kém hơn chất lượng hàng hóa, dịch vụ đã mua trước đó;
Không có khủng hoảng kinh tế, thiên tai, địch họa hoặc biến động bất thường làm giá bán buôn hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ trên thị trường liên quan giảm tới mức dưới giá thành sản xuất trong thời gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp so với trước đó.
Trong trường hợp áp đặt giá mua hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại cho khách hàng (thực chất là bên bán, bên cung cấp), doanh
nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp bị điều tra đã lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền về mua thực hiện việc định đoạt giá mua thấp mà bên bán buộc phải chấp nhận. Pháp luật cạnh tranh không giải thích thế nào là “áp đặt”, nhưng từ nghĩa của khái niệm này có thể hiểu: mức giá do bên mua đưa ra, còn bên bán vào thế bị động và phải chấp nhận. Giá được xác định không trên cơ sở thỏa thuận tự nguyện của hai bên mà theo ý chí của bên mua. Hành vi áp đặt giá mua của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền chỉ bị coi là hành vi lạm dụng khi giá mua áp đặt đó “bất hợp lý”. Bên mua ý thức được sự bất hợp lý của giá mua nhưng vẫn cố tình ép buộc bên bán phải chấp nhận. Hành vi này có thể gây ảnh hưởng lớn đến sự ổn định và phát triển của ngành kinh tế, từ đó tác động xấu đến người tiêu dùng. Về lâu dài nó có khả năng gây đình đốn hoạt động sản xuất, cung ứng sản phẩm đầu vào vì các nhà sản xuất, cung ứng không chịu đựng được thua lỗ phải từ bỏ thị trường.
Theo mô tả của Nghị định 116/2005/NĐ-CP, để chứng minh hành vi áp đặt giá mua bất hợp lý cần chứng minh: (1) Giá mua là do bên mua (bên bị điều tra) đưa ra theo ý chí của bên mua; (2) Giá mua được đưa ra và buộc bên bán phải thực hiện là bất hợp lý. Một số vấn đề nhận thức cần được thống nhất như sau:
– Về vấn đề thứ nhất (1): trong trường hợp này, giá mua được hiểu là giá mua được bên bị điều tra đơn phương quy định và áp dụng chung cho tất cả người bán. Trường hợp bên bị điều tra quy định giá mua khác nhau cho nhà cung cấp khác nhau thì việc “áp đặt” giá này là dấu hiệu của hành vi “Áp dụng điều kiện thương mại khác nhau trong các giao dịch tương tự” (27.1.đ).
Đối với vấn đề thứ hai (2), tính bất hợp lý của giá mua được xác định là giá thấp hơn giá thành sản xuất hàng hóa, dịch vụ và thỏa mãn điều kiện tương đồng về chất lượng hàng hóa, dịch vụ, đồng thời không có những tình huống khách quan dẫn đến việc giảm giá thành sản xuất. Cần lưu ý tiêu chí để xác định sự bất hợp
lý là giá thành sản xuất chứ không phải giá thành toàn bộ22, có nghĩa là khi xác định giá thành để so sánh, KHÔNG tính đến các chi phí lưu thông hàng hóa (bao gồm cả chi phí quản lý kinh doanh phân bổ cho hàng hóa được tiêu thụ). Quy
định của Nghị định số 116/2005/NĐ-CP không xác định rõ giá thành sản xuất của ai nhưng có thể ngầm định là của người bán, tức bên bị điều tra “ép” bên bán phải bán dưới giá thành sản xuất của họ23.
Từ những quy định của Nghị định 116/2005/NĐ-CP và những phân tích ở trên, chúng ta có thể xác định những vấn đề cần chứng minh về hành vi và chứng cứ cần thu thập để chứng minh hành vi áp đặt giá mua hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý như sau:
Đối tượng chứng minh Chứng cứ
(1) Giá mua hàng hóa, dịch vụ của bên Danh sách nhà cung cấp hàng hóa, dịch
bị điều tra đưa ra vụ; Bảng kê tổng hợp mua hàng của
– Giá mua trước khi xảy ra hành vi từng nhà cung cấp;
áp đặt; Hợp đồng mua bán hàng hóa; Quyết
– Giá mua khi xảy ra hành vi áp đặt. định về giá mua; Bảng giá thu mua;
Thông báo giá mua; Hóa đơn và các
chứng từ liên quan đến hàng hóa, dịch
vụ mua vào; Sổ nhật ký mua hàng;
Phiếu nhập kho…
(2) Giá thành sản xuất hàng hóa, cung Bảng tính giá thành sản xuất hàng hóa,
ứng dịch vụ của từng nhà cung cấp giá thành dịch vụ của các kỳ tính giá
thành;
Phiếu nhập kho hàng hóa; Thẻ kho; Sổ
chi tiết hàng hóa;
Các chứng từ chứng minh chi phí sản
xuất: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp;
chi phí nhân công trực tiếp; chi phí sản
xuất chung.
(3) Sự áp đặt về giá mua của bên bị Thông báo, tin nhắn của bên bị điều tra
điều tra đối với các nhà cung cấp gửi cho các nhà cung cấp; Biên bản
làm việc giữa bên bị điều tra với nhà
cung cấp; Lời khai của đại diện các
doanh nghiệp cung cấp và đại diện bên
bị điều tra…
(4) Chất lượng hàng hóa, dịch vụ Nội dung hợp đồng, phụ lục hợp đồng
– Trước khi xảy ra hành vi áp đặt; liên quan đến chất lượng hàng hóa,
– Khi xảy ra hành vi áp đặt dịch vụ;
Các biên bản giao nhận; Biên bản kiểm
nghiệm hàng hóa; Biên bản thanh lý
hợp đồng (có nội dung xác nhận về
chất lượng hàng hóa dịch vụ);
(5) Các tình huống khách quan và tác Thông tin khủng hoảng kinh tế, thiên
động ảnh hưởng làm giảm giá bán tai, địch họa hoặc biến động bất thường
buôn hàng hóa, giá cung ứng dịch (không phải chứng minh);
vụ trên thị trường liên quan tới Báo cáo phân tích ảnh hưởng của tình
mức dưới giá thành sản xuất trong huống khách quan đến giá bán buôn
thời gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ trên thị
so với trước đó trường liên quan;
Dữ liệu thống kê về giá thành sản xuất
trước khi xảy ra tình huống;
Về hậu quả cần làm rõ: hành vi áp đặt giá mua hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý có gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại cho người bán hay không? Thực chất, khi người bán bị bắt buộc phải bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá thành sản xuất thì họ đã bị thiệt hại. Do đó, trong quá trình điều tra chỉ cần làm rõ mức thiệt hại cụ thể của từng nhà cung cấp đã bán hàng, cung cấp dịch vụ cho bên bị điều tra theo giá do bên bị điều tra áp đặt. Để làm rõ thiệt hại cụ thể về kinh tế, trên cơ sở số liệu về sản lượng, số lượng hàng hóa đã cung cấp; phần chênh lệch giá giữa thị trường (không bị áp đặt) và giá bị áp đặt, cơ quan điều tra hoàn toàn có thể tính toán số tiền mà bên bán đã bị thiệt hại. Trong những trường hợp phức tạp, có thể trưng cầu giám định về giá để có đánh giá chính xác về thiệt hại của người bán.
Đơn vị gửi tin Phòng: Tháng gửi Tháng 06/2023
Mục yêu cầu đăng tin
Ngôn ngữ Tiếng việt (cỡ chữ 13 Times New Roman) Số trang
Số từ (words) 13
5502
Xếp loại Tin/Bài Lãnh đạo UB/Trưởng Ban biên tập
Lãnh đạo Phòng/ Ban biên tập
Người viết
Lê Huyền Trang
Đề xuất
Tiêu đề: Kế hoạch điều tra vụ việc lạm dụng vị trí thống lĩnh, độc quyền (P2)
1.3. Áp đặt giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý gây ra hoặc có khả năng gây ra thiệt hại cho khách hàng
Điều 27 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP quy định về hành vi áp đặt giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý gây ra thiệt hại cho khách hàng như sau:
Hành vi áp đặt giá bán hàng hóa, dịch vụ được coi là bất hợp lý gây thiệt hại cho khách hàng nếu cầu về hàng hoá, dịch vụ không tăng đột biến tới mức vượt quá công suất thiết kế hoặc năng lực sản xuất của doanh nghiệp và thỏa mãn hai điều kiện sau đây:
Giá bán lẻ trung bình tại cùng thị trường liên quan trong thời gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp được đặt ra tăng một lần vượt quá 5%; hoặc tăng nhiều lần với tổng mức tăng vượt quá 5% so với giá đã bán trước khoảng thời gian tối thiểu đó;
Không có biến động bất thường làm tăng giá thành sản xuất của hàng hóa, dịch vụ đó vượt quá 5% trong thời gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp trước khi bắt đầu tăng giá.
Để xác định vấn đề cần chứng minh và chứng cứ, chúng ta cần hiểu về bản chất của hành vi áp đặt giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý.
Áp đặt giá bán xảy ra khi bên bán là doanh nghiệp/nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc doanh nghiệp có vị trí độc quyền về cung ứng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường liên quan định đoạt mức giá bán bất hợp lý để thu lợi nhuận. Do thị trường hạn chế tính cạnh tranh nên người mua buộc phải chấp nhận mua sản phẩm với mức giá bất hợp lý mà bên bán đặt ra. Theo quy định của pháp luật cạnh tranh Việt Nam, việc xác định giá bán bất hợp lý dựa vào phép so sánh giá của doanh nghiệp tại các thời điểm khác nhau. Khoảng thời gian giữa các thời điểm so sánh là 60 ngày. Nếu trong vòng 60 ngày không có biến động tăng đáng kể về cầu và chi phí, mà doanh nghiệp thống lĩnh/độc quyền tăng giá bán hơn 5%, thì bị xem là định giá bán bất hợp lý gây thiệt hại cho khách
hàng. Nếu một trong hai điều kiện về nhu cầu hoặc chi phí có biến động đáng kể, việc tăng giá bán hơn 5% của doanh nghiệp không bị xem là bất hợp lý.
Góc độ kinh tế, chênh lệch giữa giá bán với giá thành càng nhiều thì biên lợi nhuận càng lớn. Có ba cách để mở rộng biên lợi nhuận. Một là, tìm cách giảm giá thành (tiết kiệm chi phí, áp dụng kỹ thuật, công nghệ mới tăng năng suất) trong khi giữ nguyên hoặc giảm giá bán nhưng mức giảm ít hơn mức giảm của giá thành. Hai là, giá thành không đổi hoặc tăng ít nhưng giá bán tăng hoặc tăng nhiều hơn mức tăng của giá thành. Ba là, vừa giảm giá thành vừa tăng giá bán. Pháp luật cạnh tranh Việt Nam chỉ cấm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền mở rộng biên lợi nhuận theo cách thứ hai, thứ ba.
Từ những quy định của Nghị định 116/2005/NĐ-CP và những phân tích ở trên, chúng ta có thể xác định những vấn đề cần chứng minh về hành vi và chứng cứ cần thu thập để chứng minh hành vi áp đặt giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý như sau:
Đối tượng chứng minh Chứng cứ
(1) Công suất thiết kế, năng lực sản Hồ sơ thiết kế nhà máy, xưởng sản
xuất, cung ứng dịch vụ của doanh xuất, dây truyền công nghệ; Thiết kế
nghiệp bị điều tra trước khi có cơ sở dịch vụ…
hành vi áp đặt giá bán Báo cáo về sản lượng, công suất phục
vụ, quy mô sản xuất, cung ứng dịch vụ
Báo cáo tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ
trước khi áp đặt giá
(2) Giá bán hàng hóa, dịch vụ của bên Danh sách khách hàng; Bảng kê tổng
bị điều tra hợp mua hàng của từng nhà cung cấp;
– Giá bán trước khi xảy ra hành vi Tài liệu liên quan đến quá trình thương
áp đặt; thảo và ký và ký lại hợp đồng mua bán
– Giá bán khi xảy ra hành vi áp đặt. hàng hóa;
Quyết định về giá bán; Bảng giá bán;
Thông báo giá bán; Hóa đơn và các
chứng từ liên quan đến hàng hóa, dịch
vụ được tiêu thụ; Sổ nhật ký bán hàng;
Phiếu xuất kho…
(3) Sự áp đặt giá bán của bên bị điều Thông báo, tin nhắn, thư mà bên bị
tra với khách hàng điều tra gửi cho khách hàng; Biên bản
làm việc, hội nghị khách hàng; Lời
khai của các đương sự về quá trình
đàm phán, thay đổi nội dung hợp đồng
(4) Việc tăng đột biến về cầu hàng hóa, Báo cáo phân tích biến động cầu hàng
dịch vụ hóa, dịch vụ; xác định số lượng hàng
hóa được cầu trước khi xảy ra áp đặt
giá
(5) Giá bán lẻ trung bình trên thị Dữ liệu về giá bán lẻ hàng hóa, dịch vụ
trường liên quan trong thời gian 60 trên thị trường liên quan trong thời
ngày có tăng 1 lần vượt quá 5% gian 60 ngày.
hoặc nhiều lần với tổng mức tăng Báo cáo phân tích so sánh biến động
vượt quá 5% giá bán lẻ trên thị trường liên quan.
(6) Thị trường không có biến động bất Các bảng tính giá thành sản xuất, giá
thường làm tăng giá thành sản xuất thành dịch vụ: chi phí nguyên, vật liệu
của hàng hóa, dịch vụ đó vượt quá trực tiếp; chi phí nhân công trực tiếp;
5% trong thời gian tối thiểu 60 chi phí sản xuất chung; chi phí kinh
ngày liên tiếp trước khi bắt đầu doanh đặc thù.
tăng giá: Các sổ sách kế toán liên quan đến việc
– Các yếu tố cấu thành giá thành sản xác định giá thành sản xuất, giá thành
xuất hàng hóa, giá thành dịch vụ dịch vụ trước khi tăng giá;
Dữ liệu về giá các yếu tố cấu thành giá
thành sản xuất, giá thành dịch vụ trong
Đối tượng chứng minh Chứng cứ
– Sự biến động của giá thị trường thời gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp
của các yếu tố cấu thành giá thành trước khi tăng giá.
sản xuất, giá thành dịch vụ Báo cáo phân tích tác động của sự biến
– Tác động của sự biến động giá thị động của các yếu tố cấu thành đến giá
trường các yếu tố cấu thành đến thành sản xuất, giá thành dịch vụ
giá thành sản xuất, giá thành dịch
vụ
Về hậu quả, tương tự như trường hợp áp đặt giá mua hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý, việc chứng minh các dấu hiệu khách quan về hành vi áp đặt giá bán hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ bất hợp lý đã bao hàm việc gây thiệt hại hoặc khả năng gây thiệt hại cho khách hàng. Để củng cố thêm, cơ quan điều tra có thể chứng minh về những thiệt hại thực tế mà người mua phải gánh chịu. Giá trị thiệt hại có thể được tính toán bằng cách lấy phần giá trị chênh lệch giữa giá bán cạnh tranh với giá bán bị áp đặt nhân với tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ liên quan mà doanh nghiệp/nhóm doanh nghiệp vi phạm đã tiêu thụ.
1.4. Ấn định giá bán lại tối thiểu gây ra hoặc có khả năng gây ra thiệt hại cho khách hàng
Hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu gây ra hoặc có khả năng gây ra thiệt hại cho khách hàng của được hướng dẫn tại Điều 27 Nghị định 116/2005/NĐ-CP như sau:
Ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng là việc khống chế không cho phép các nhà phân phối, các nhà bán lẻ bán lại hàng hóa thấp hơn mức giá đã quy định trước.
Từ nội dung mô tả của Điều 27 Nghị định 116/2005/NĐ-CP có thể hiểu như sau:
Hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu là một dạng hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc, trong đó doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có quyền lực chi phối thị trường đơn phương áp đặt ý chí mình bằng việc “khống chế không cho phép” các nhà phân phối, các nhà bán lẻ bán lại hàng hóa thấp hơn “mức giá đã quy định trước”. Khi ấn định giá bán lại tối thiểu, doanh nghiệp thống lĩnh hoặc độc quyền có thể nhắm đến một, một số hoặc tất cả các mục đích: (1) Tạo mặt bằng giá sàn cho sản phẩm của mình, hạn chế khả năng các nhà phân phối, các nhà bán lẻ cạnh tranh với hệ thống bán lẻ trực tiếp đến người tiêu dùng của chính doanh nghiệp; (2) Hạn chế khả năng cạnh tranh lẫn nhau giữa các nhà phân phối, bán lẻ gây mất ổn định hoặc thu hẹp mạng lưới phân phối sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường; (3) Duy trì giá bán lẻ đến người tiêu dùng ở mức cao để thu lợi nhuận nhiều hơn. Hệ quả của hành vi là hạn chế cạnh tranh trong phân phối, bán lẻ sản phẩm và gây thiệt hại cho khách hàng (nhà phân phối, bán lẻ và người tiêu dùng).
Cần lưu ý chỉ trong trường hợp nhà phân phối là đại lý bán hàng cho doanh nghiệp thì doanh nghiệp có thể ấn định giá bán. Đại lý thương mại chỉ nhận thù lao cho hoạt động bán hàng. Ấn định giá bán lẻ hoặc giá giao cho đại lý khác với ấn định giá bán lại tối thiểu đối với các nhà phân phối độc lập. Mối quan hệ giữa doanh nghiệp và đại lý thương mại không phải là mối quan hệ giữa nhà cung ứng với khách hàng, mà là quan hệ đối tác trong hoạt động trung gian thương mại. Trong mối quan hệ này, doanh nghiệp vẫn duy trì quyền sở hữu đối với sản phẩm cho đến khi nó được bán cho khách hàng. Nếu giá bán lẻ hoặc giá giao đại lý được ấn định ở mức “bất hợp lý”, thì cấu thành hành vi áp đặt giá bán bất hợp lý chứ không phải hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu. Như vậy, cần loại trừ các đại lý được coi như bộ phận trong hệ thống bán hàng trực tiếp của doanh nghiệp.
Đối với các nhà phân phối, các nhà bán lẻ khác đều là khách hàng của doanh nghiệp, thậm chí là khách hàng thường xuyên và mua hàng số lượng lớn. Sau khi mua hàng, họ trở thành chủ sở hữu và có quyền định đoạt giá bán lẻ theo đường lối kinh doanh và cạnh tranh của riêng họ. Việc bị khống chế, không cho phép bán lại hàng hóa thấp hơn một mức nhất định quy định trước sẽ triệt tiêu khả năng giảm giá bán lẻ để tiêu thụ được hàng trong những điều kiện, hoàn cảnh riêng của họ. Còn người tiêu dùng thì bị triệt tiêu khả năng mua được sản phẩm với giá rẻ hơn.
Từ những phân tích nêu trên, chúng ta có thể xác định những vấn đề cần chứng minh và chứng cứ cần thu thập đối với trường hợp ấn định giá bán lại tối thiểu.
Qua những nội dung tìm hiểu ở trên, chúng ta có thể khái quát những vấn đề cần chứng minh và chứng cứ cần thu thập để chứng minh cho hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng như sau:
Đối tượng chứng minh Chứng cứ
(1) Mức giá tối thiểu mà bên bị điều tra Các thông báo (văn bản giấy hoặc điện
yêu cầu đối với các nhà phân phối, tử) có liên quan đến mức giá tối thiểu
nhà bán lẻ mà bên bị điều tra gửi cho nhà phân
phối, nhà bán lẻ
(2) Sự đơn phương của bên bị điều tra Điều khoản hợp đồng, phụ lục hợp
khi đưa ra quyết định và khống chế đồng liên quan đến nghĩa vụ của nhà
không cho phép các nhà phân phối, phân phối, nhà bán lẻ trong việc thực
nhà bán lẻ bán lại với mức giá hiện quy định về giá của bên bị điều
không thấp thấp hơn mức giá bán tra; Biên bản các cuộc họp, hội nghị
lại tối thiểu khách hàng; Lời khai của các đương sự
liên quan…
(3) Các nhà phân phối, nhà bán lẻ được Danh sách các nhà phân phối, nhà bán
yêu cầu lẻ nhận được thông báo về giá bán lại
tối thiểu;
(4) Sự tuân thủ yêu cầu thực hiện giá Các tài liệu liên quan đến chính sách
bán lại tối thiểu của các nhà phân giá của nhà phân phối, nhà bán lẻ; Hóa
phối, nhà bán lẻ đơn; Sổ nhật ký bán hàng…
Về hậu quả, tương tự như hành vi cùng nhóm liên quan đến giá, việc chứng minh hậu quả là không cần thiết vì việc ấn định giá bán lại tối thiểu với nhà phân phối, nhà bán lẻ đã chứa đựng những thiệt hại đối với họ và người tiêu dùng. Nếu xét thấy cần thiết củng cố thêm chứng cứ về hậu quả, Cơ quan Điều tra vụ việc cạnh tranh có thể xác định thêm những hậu quả thiệt hại thực tế. Để chứng minh thiệt hại thực tế, Cơ quan Điều tra vụ việc cạnh tranh cần làm rõ giá của hàng hóa, dịch vụ trong điều kiện khi chưa có ấn định giá và xác định sự chênh lệch của giá cạnh tranh đó với giá bán lại tối thiểu bị ấn định. Từ đó xác định phần tiền mà người tiêu dùng đã phải trả thêm bằng việc nhân phần chênh lệch giá đó với số lượng hàng hóa, dịch vụ mà bên bị điều tra đã tiêu thụ trong giai đoạn xảy ra hành vi vi phạm.
1.5. Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ gây ra hoặc có khả năng gây ra thiệt hại cho khách hàng
Theo khoản 1 Điều 28 Nghị định 116/2005/NĐ-CP, hành vi hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ được xác định như sau:
Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ gây thiệt hại cho khách hàng là hành vi:
Cắt, giảm lượng cung ứng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường liên quan so với lượng hàng hóa, dịch vụ cung ứng trước đó trong điều kiện không có biến động lớn về quan hệ cung cầu; không có khủng hoảng kinh tế, thiên tai, địch họa; không có sự cố lớn về kỹ thuật; hoặc không có tình trạng khẩn cấp;
Ấn định lượng cung ứng hàng hóa, dịch vụ ở mức đủ để tạo sự khan hiếm trên thị trường;
Găm hàng lại không bán để gây mất ổn định thị trường.
Qua những nội dung quy định tại khoản 1 Điều 28 Nghị định 116/2005/NĐ- CP cho thấy:
Bản chất của hành vi hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, độc quyền là việc các doanh nghiệp này lợi dụng vị trí, sức mạnh thị trường của mình để ngừng hoặc giảm lượng hàng hóa, dịch vụ được cung cấp đến thiếu hụt nguồn cung so với cầu, đẩy giá cả thị trường của hàng hóa, dịch vụ tăng lên thông qua đó kiếm lợi lớn hơn từ người tiêu dùng. Hành vi hạn chế về cung chỉ có thể thực hiện được bởi các doanh nghiệp có quyền lực thị trường. Bởi lẽ, nếu một hoặc một nhóm doanh nghiệp không có quyền lực thị trường thực hiện hạn chế cung ứng hàng hóa, dịch vụ của mình, thì phần thiếu hụt cung của họ sẽ nhanh chóng được bù đắp bởi các đối thủ cạnh tranh khác. Đối với doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền, trên một thị trường liên quan, khách hàng có rất ít hoặc không có cơ hội lựa chọn hàng hóa, dịch vụ, thậm chí hàng hóa, dịch vụ thay thế từ nguồn khác. Chỉ có những doanh nghiệp có vị thế như vậy mới đủ sức làm biến dạng quan hệ cung – cầu hàng hóa trên thị trường liên quan, qua đó tác động đến sự thay đổi của giá cả theo chủ ý của họ. Pháp luật cạnh tranh vì vậy đặt ra để kiểm soát và ngăn cấm các doanh nghiệp có vị trí độc quyền, vị trí thống lĩnh thực hiện hạn chế nguồn cung qua đó hưởng lợi bất chính.
Theo Điều 28 Nghị định 116/2005/NĐ-CP, các hành vi hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ bao gồm:
Cắt, giảm lượng cung ứng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường liên quan so với lượng hàng hóa, dịch vụ cung ứng trước đó mà không lý do chính đáng cho việc cắt, giảm đó (sự suy giảm đột biến về cầu; khủng hoảng kinh tế, thiên tai, địch họa; sự cố lớn về kỹ thuật; tình trạng khẩn cấp). Cắt, giảm lượng cung ứng hàng hóa, dịch vụ thường được quyết định bởi cấp điều hành cao nhất của doanh nghiệp. Nội dung của quyết định đó là dừng hoặc giảm số lượng hàng hóa, dịch vụ được bán ra trên thị trường. Trong thực tiễn kinh doanh, doanh nghiệp hoàn toàn có quyền tự chủ trong việc đưa ra quyết định cắt, giảm lượng cung ứng hàng hóa, dịch vụ theo sự mách bảo của cầu trên thị trường. Đối với doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, độc quyền, họ là người dẫn dắt thị trường, trong khi cầu còn rất cao mà họ cắt, giảm lượng cung sẽ dẫn đến cung thấp hơn cầu. Theo quy luật cung – cầu, sự mất cân đối này dẫn đến tăng giá. Bằng việc tác động cắt, giảm cung như vậy, doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền sẽ hưởng lợi từ việc tăng giá hay họ đã “cướp” của người tiêu dùng từ sự mất cân đối cung – cầu do chính họ tạo ra.
Ấn định lượng cung ứng hàng hóa, dịch vụ ở mức đủ để tạo sự khan hiếm trên thị trường là việc doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền quy định số lượng đơn vị hàng hóa, dịch vụ bán ra ở con số nhất định và con số đó thấp hơn mức hàng hóa, dịch vụ được cầu trên thị trường. Doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền là doanh nghiệp làm chủ trên thị trường, họ có đủ nguồn lực để xác định mức cầu hàng hóa, dịch vụ trên thị trường liên quan. Với việc ấn định lượng hàng hóa, dịch vụ được cung cấp thấp hơn mức cầu, họ có thể tạo ra và duy trì trạng thái mất cân đối theo hướng kích thích tăng giá trên thị trường. Từ đó họ hưởng lợi từ việc tăng giá đó.
Găm hàng là việc doanh nghiệp giữ lại hàng hóa không đưa vào lưu thông trên thị trường. Đối với doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, độc quyền, việc găm hàng được họ thực hiện sẽ tạo ra sự thiếu hụt tạm thời về cung trên thị trường, thúc đẩy giá tăng. Khi giá lên, họ sẽ đưa hàng ra tiêu thụ để kiếm lời lớn hơn. Hành vi găm hàng rất đa dạng. Nó có thể là: cắt giảm địa điểm bán hàng; cắt giảm phương thức bán hàng khác với thời gian trước đó; quy định, niêm yết, bán hàng theo định lượng, khách hàng khác với thời gian trước đó; cắt giảm thời gian bán hàng, thời gian cung ứng hàng hóa khác với thời gian trước đó…
Qua nghiên cứu, trao đổi có thể khái quát lại về những vấn đề cần chứng minh và chứng cứ cần thu thập trong trường hợp hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ như sau:
Đối tượng chứng minh Chứng cứ
(1) Cắt, giảm lượng cung ứng hàng
hóa, dịch vụ
-Lượng hàng hóa, dịch vụ được cung Dữ liệu thống kê thị trường và báo cáo
ứng trên thị trường liên quan trước phân tích dữ liệu thống kê thi
khi cắt, giảm Báo cáo bán hàng; Sổ nhật ký bán
hàng; Sổ chi tiết hàng hóa tiêu thụ của
doanh nghiệp bị điều tra
– Việc quyết định cắt, giảm lượng cung Các quyết định của doanh nghiệp bị
ứng hàng hóa, dịch vụ điều tra; Biên bản cuộc họp cấp lãnh
đạo; Văn bản chỉ đạo, điều hành; Lời
khai của đại diện doanh nghiệp bị điều
tra
– Lượng hàng hóa, dịch vụ được cung Báo cáo bán hàng; Sổ nhật ký bán
ứng trên thị trường liên quan sau khi hàng; Sổ chi tiết hàng hóa tiêu thụ của
cắt, giảm doanh nghiệp bị điều tra
Dữ liệu thống kê thị trường và báo cáo
phân tích dữ liệu thống kê
– Tác động của cắt, giảm lượng cung Dữ liệu thống kê về giá và báo cáo
ứng hàng hóa dịch vụ đến giá cả phân tích dữ liệu thống kê về giá thị
+Giá cả của hàng hóa, dịch vụ liên trường hàng hóa, dịch vụ liên quan
quan trước khi cắt, giảm cung
+Giá cả của hàng hóa, dịch vụ sau khi
có thực hiện cắt, giảm cung
– Các tình tiết loại trừ:
+ Suy giảm đột biến về cầu; Báo cáo thể hiện các tình tiết này và
+ Khủng hoảng kinh tế; không cần chứng minh
+ Thiên tai;
+ Địch họa;
+ Sự cố lớn về kỹ thuật; Các tài liệu, lời khai xác nhận
+ Tình trạng khẩn cấp Không cần chứng minh
(2) Ấn định lượng cung ứng hàng hóa,
dịch vụ ở mức đủ để tạo sự khan
hiếm trên thị trường
-Lượng hàng hóa, dịch vụ trên thị Báo cáo bán hàng; Sổ nhật ký bán
trường liên quan trước khi ấn định hàng; Sổ chi tiết hàng hóa tiêu thụ của
doanh nghiệp bị điều tra
Đối tượng chứng minh Chứng cứ
Dữ liệu thống kê lượng hàng hóa, dịch
vụ trên toàn thị trường
– Việc ấn định lượng cung hàng hóa, Các quyết định của doanh nghiệp bị
dịch vụ, số lượng được ấn định, cách điều tra; Biên bản cuộc họp cấp lãnh
thức thực hiện việc ấn định đạo; Văn bản chỉ đạo, điều hành; Lời
khai của đại diện doanh nghiệp bị điều
tra
-Lượng hàng hóa, dịch vụ trên thị Báo cáo bán hàng; Sổ nhật ký bán
trường liên quan sau khi ấn định hàng; Sổ chi tiết hàng hóa tiêu thụ của
doanh nghiệp bị điều tra
Dữ liệu thống kê lượng hàng hóa, dịch
vụ trên toàn thị trường
– Mức cầu hàng hóa thị trường sau khi Báo cáo phân tích, khảo sát thị trường
ấn định
Tác động của việc ấn định cung đến Dữ liệu thống kê về giá và báo cáo giá cả hàng hóa, dịch vụ trên thị phân tích dữ liệu thống kê về giá thị
trường: trường hàng hóa, dịch vụ liên quan
+Giá cả trước khi ấn định
+Giá sau khi ấn định
Găm hàng để gây bất ổn thị trường
Số lượng hàng hóa được cung trước Báo cáo bán hàng; Sổ nhật ký bán
khi găm hàng hàng; Sổ chi tiết hàng hóa tiêu thụ của
doanh nghiệp bị điều tra
– Số lượng hàng hóa còn tồn của doanh Báo cáo hàng tồn kho; Sổ chi tiết hàng
nghiệp bị điều tra trước khi găm hàng hóa
– Số lượng hàng hóa tăng tại doanh Báo cáo tình hình sản xuất, mua, nhập
nghiệp bị điều tra trong giai đoạn khẩu hàng hóa; Sổ nhật ký mua hàng;
găm hàng Sổ chi tiết hàng hóa
– Số lượng doanh nghiệp bị điều tra Báo cáo bán hàng; Sổ nhật ký bán
tiêu thụ trong giai đoạn găm hàng hàng; Sổ chi tiết hàng hóa tiêu thụ của
doanh nghiệp bị điều tra
– Hình thức găm hàng Các quyết định, điều hành, chỉ đạo tại
doanh nghiệp bị điều tra; Lời khai của
các đương sự
Đối tượng chứng minh Chứng cứ
– Tác động của việc găm hàng đến thị Dữ liệu thống kê về giá và báo cáo
trường: phân tích dữ liệu thống kê về giá thị
+Giá cả thị trường trước và sau khi trường hàng hóa, dịch vụ liên quan
găm hàng Báo cáo phân tích tình hình thị trường
+ Tình hình quan hệ cung – cầu;
+ Phản ứng của người tiêu dùng và xã
hội.
Về hậu quả, những hành vi hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ đều dẫn đến gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại cho khách hàng do hệ quan tăng giá phi cạnh tranh trên thị trường. Từ việc chênh lệch giá, cơ quan điều tra có thể tính toán được số tiền mà khách hàng (người tiêu dùng) đã phải bỏ thêm để mua hàng hóa, dịch vụ.
1.6. Giới hạn thị trường gây ra hoặc có khả năng gây ra thiệt hại cho khách hàng
Điều 28 Nghị định 116/2005/NĐ-CP định nghĩa hành vi giới hạn thị trường gây thiệt hại cho khách hàng như sau:
Giới hạn thị trường gây thiệt hại cho khách hàng là hành vi:
a) Chỉ cung ứng hàng hóa, dịch vụ trong một hoặc một số khu vực địa lý nhất định;
Chỉ mua hàng hoá, dịch vụ từ một hoặc một số nguồn cung nhất định trừ trường hợp các nguồn cung khác không đáp ứng được những điều kiện hợp lý và phù hợp với tập quán thương mại thông thường do bên mua đặt ra.
Qua miêu tả nêu trên có thể hiểu về hành vi giới hạn thị trường gây thiệt hại cho khách hàng như sau:
Hành vi giới hạn thị trường là hành vi của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, độc quyền đơn phương can thiệp, tác động làm giảm cung, cầu hàng hóa trên thị trường qua đó làm thay đổi giá bán, giá mua hàng hóa, dịch vụ trên thị trường từ đó hưởng lợi, đồng thời gây thiệt hại của người tiêu dùng và nhà cung cấp. Cũng như những trường hợp lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền khác, chỉ có doanh nghiệp có sức mạnh thị trường mới có khả năng thực hiện hành vi giới hạn thị trường đủ mức để tác động đến cung, cầu trên thị trường. Nếu không có sức mạnh thị trường, một hoặc một nhóm doanh nghiệp không đủ tiềm lực để can thiệp cung, cầu thị trường hoặc nếu có thực hiện cũng không dẫn đến những biến đổi đáng kể cung, cầu trên thị trường. Hành vi giới hạn thị trường bao gồm:
Hành vi giới hạn về cung: doanh nghiệp/nhóm doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền về cung giới hạn phạm vi khu vực địa lý thực hiện việc cung ứng hàng hóa, dịch vụ. Hành vi giới hạn về cung được thể hiện dưới các hình thức như: không hoặc hạn chế giao kết hợp đồng cung cấp hàng hóa, dịch vụ với những khách hàng ở ngoài khu vực địa lý bị giới hạn; không mở cửa hàng, địa điểm bán hàng hoặc có mở nhưng không bán hàng ngoài khu vực địa lý bị giới hạn; yêu cầu các đại lý, nhà phân phối, nhà bán lẻ không bán hàng, phân phối lại hàng hóa ngoài khi vực địa lý bị giới hạn… Với những hành vi như vậy, doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền sẽ tạo ra và duy trì sự khan hiếm hàng hóa ở khu vực không bị giới hạn, làm cho khách hàng, người tiêu dùng gặp khó khăn trong việc mua hàng, tăng chi phí mua hàng từ đó dẫn đến tăng giá hàng hóa, dịch vụ tại những khu vực địa lý đó.
Hành vi giới hạn về cầu: doanh nghiệp/nhóm doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền về cầu thực hiện việc mua hàng hóa, dịch vụ từ một hoặc số nguồn nhất định trong khi vẫn có những nguồn cung khác đáp ứng được những“điều kiện hợp lý và phù hợp với tập quán thương mại thông thường do doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền đặt ra”. Các dạng hành vi giới hạn về cầu mà doanh nghiệp độc quyền, thống lĩnh về cầu chỉ duy trì giao kết hợp đồng mua hàng, dịch vụ với một hoặc một số nhà cung cấp nhất định trong khi từ chối giao kết hợp đồng với các doanh nghiệp có đủ điều kiện khác. Cần lưu ý, các điều kiện mua hàng mà doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền mua đưa ra phải là những điều kiện mua hàng hóa, dịch vụ chung cho tất cả các nhà phân phối. Trường hợp, các doanh nghiệp này đưa ra những điều kiện khác nhau với các nhà phân phối khác nhau với cùng giao dịch tương tự sẽ thuộc trường hợp hành vi “áp dụng điều kiện thương mại khác nhau trong các giao dịch tương tự” chứ không phải hành vi “giới hạn thị trường”.
Đối tượng chứng minh Chứng cứ
(1)Chỉ cung ứng hàng hóa, dịch vụ trong một hoặc một số khu vực địa lý nhất định
Chính sách của doanh nghiệp bị điều Các quyết định của doanh nghiệp bị tra liên quan đến phạm vi thị trường điều tra; Biên bản cuộc họp cấp lãnh
cung ứng hàng hóa, dịch vụ đạo; Văn bản chỉ đạo, điều hành; Lời
khai của đại diện doanh nghiệp bị điều
tra;
Các tài liệu, thư, thông báo, tin nhắn
mà doanh nghiệp bị điều tra gửi các
– Khu vực địa lý được giới hạn cung
ứng hàng hóa, dịch vụ đơn vị phân phối có nội dung liên quan
đến giới hạn thị trường;
Danh sách các đơn vị (có thể hiện địa
chỉ) phân phối, thực hiện dịch vụ của
doanh nghiệp bị điều tra và các doanh
nghiệp phân phối, đại lý, cơ sở kinh
doanh bán hàng hóa;
Bản tổng hợp doanh thu, doanh số của
các địa chỉ cung ứng hàng hóa, dịch vụ
của doanh nghiệp bị điều tra;
Đối tượng chứng minh Chứng cứ
– Sự chối bỏ việc cung ứng hàng hóa, Các tài liệu, lời khai của các doanh
dịch vụ ngoài khu vực địa lý bị giới nghiệp, đơn vị, cá nhân kinh doanh đã
hạn liên hệ, đàm phán liên quan đến cung
ứng hàng hóa, dịch vụ của doanh
nghiệp bị điều tra nhưng không được
chấp nhận.
(2)Chỉ mua hàng hoá, dịch vụ từ một
hoặc một số nguồn cung nhất định
– Chính sách của doanh nghiệp bị điều Các quyết định của doanh nghiệp bị
tra về việc mua hàng hóa, dịch vụ điều tra; Biên bản cuộc họp cấp lãnh
đạo; Văn bản chỉ đạo, điều hành; Lời
khai của đại diện doanh nghiệp bị điều
tra
Danh sách các đơn vị cung cấp hàng
– Nguồn cung cấp hàng hóa, dịch vụ
hóa, dịch vụ cho doanh nghiệp bị điều
của doanh nghiệp bị điều tra
tra ;
Bản tổng hợp mua hàng hóa, dịch vụ
của doanh nghiệp bị điều tra;
– Việc từ chối các nguồn cung khác Các tài liệu, lời khai của các doanh
nguồn cung đã xác định nghiệp, đơn vị, cá nhân kinh doanh đã
– Lý do bị chối bỏ có liên quan đến điều liên hệ, đàm phán liên quan đến cung
kiện do bên bị điều tra đưa ra không cấp hàng hóa, dịch vụ của doanh
nghiệp bị điều tra nhưng không được
chấp nhận.
Đơn vị gửi tin Phòng: Tháng gửi Tháng 07/2023
Mục yêu cầu đăng tin
Ngôn ngữ Tiếng việt (cỡ chữ 13 Times New Roman) Số trang
Số từ (words) 08
4028
Xếp loại Tin/Bài Lãnh đạo UB/Trưởng Ban biên tập
Lãnh đạo Phòng/ Ban biên tập
Người viết
Lê Huyền Trang
Đề xuất
Tiêu đề: Kế hoạch điều tra vụ việc lạm dụng vị trí thống lĩnh, độc quyền (P3)
1.7. Cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây ra hoặc có khả năng gây ra thiệt hại cho khách hàng
Khoản 3 Điều 28 Nghị định 116/2005/NĐ-CP quy định về hành vi cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng như sau:
Cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ làm thiệt hại cho khách hàng là hành vi:
Mua sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp để tiêu hủy hoặc không sử dụng;
Đe dọa hoặc ép buộc người đang nghiên cứu phát triển kỹ thuật, công nghệ phải ngừng hoặc hủy bỏ việc nghiên cứu đó.
Phát triển khoa học, công nghệ là quá trình sáng tạo những công nghệ mới, cho ra những sản phẩm mới hoặc cải tạo, hoàn thiện những công nghệ đã có với những tính năng ưu việt hơn. Sản phẩm của phát triển khoa học, công nghệ là các sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp. Các đối tượng này có thể tồn tại dưới dạng: các sản phẩm (vật thể, các chất); các văn bản mô tả quy trình hay phương pháp mới; các hình ảnh mô tả. Điều kiện để công nhận các đối tượng này với tư cách là các sáng chế, giải pháp hữu ích hoặc kiểu dáng công nghiệp và được được bảo hộ nếu chúng hàm chứa được tính sáng tạo, tính mới hoặc không phải hiểu biết thông thường và phải có khả năng áp dụng công nghiệp (tức sử dụng được trong sản xuất, kinh doanh với quy mô công nghiệp).
Trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, khoa học và công nghệ, thúc đẩy phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ sẽ giúp doanh nghiệp tối thiểu hóa chi phí đầu vào, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, tạo ra những sản phẩm mới có tính năng vượt trội đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Hơn nữa, vì các sáng chế, giải pháp hữu ích hoặc kiểu dáng công nghiệp được pháp luật bảo hộ trong khoảng thời gian nhất định nên doanh nghiệp nào sở hữu chúng sẽ duy trì được lợi thế cạnh tranh trong thời gian.
Đối với doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền, các sáng chế, giải pháp hữu ích hoặc kiểu dáng công nghiệp mới sẽ đe dọa vị trí của họ. Nếu các đối tượng này thuộc sở hữu của đối thủ cạnh tranh mới, họ sẽ cung cấp ra thị trường các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ vượt trội hơn vì vậy doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền sẽ dần mất thị phần. Trường hợp doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền muốn nắm giữ được các đối tượng đó, họ phải đầu tư rất nhiều nguồn lực để phát triển khoa học, công nghệ. Với vị thế hiện có, họ có thể không cần lựa chọn phương án đó mà thay vào đó họ sẽ mua các sáng chế, giải pháp hữu ích hoặc kiểu dáng công nghiệp mới. Tuy nhiên, khi đã sở hữu được những đối tượng này, nếu đưa vào áp dụng, doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền lại phải đầu tư nguồn lực để chuyển đổi công nghệ. Điều này với họ trong nhiều trường hợp cũng không thực sự cần thiết, do vậy họ sẽ thực hiện các hành vi cản trở phát triển khoa học, công nghệ.
Hành vi cản trở phát triển khoa học, công nghệ của doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền sẽ gây hậu quả cho xã hội mà trực tiếp là người tiêu dùng. Người tiêu dùng sẽ mất đi cơ hội được sử dụng các hàng hóa, dịch vụ mới, những sản phẩm có chất lượng tốt hơn và giá cả hợp lý hơn.
1.8. Áp dụng điều kiện thương mại khác nhau trong các giao dịch tương tự dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác
“Áp dụng điều kiện thương mại khác nhau trong các giao dịch tương tự dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác” được quy định tại điểm d, khoản 1, Điều 27 Luật Cạnh tranh 2018 kế thừa và có thay đổi so với khoản 4 Điều 13
Luật Cạnh tranh 2004 “Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh”. Điều 29 Nghị định 116/2005/NĐ-CP hướng dẫn khoản 4 Điều 13 Luật Cạnh tranh 2004 như sau:
Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong điều kiện giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh là hành vi phân biệt đối xử đối với các doanh nghiệp về điều kiện mua, bán, giá cả, thời hạn thanh toán, số lượng trong những giao dịch mua, bán háng hóa, dịch vụ tương tự về mặt giá trị hoặc tính chất hàng hoá, dịch vụ để đặt một hoặc một số doanh nghiệp vào vị trí cạnh tranh có lợi hơn so với doanh nghiệp khác.
Nghiên cứu quy định của Luật Cạnh tranh 2018 so với Luật Cạnh tranh 2004 về hành vi “Áp dụng điều kiện thương mại khác nhau trong các giao dịch tương tự” có thể thấy một số vấn đề sau:
Bản chất của hành vi áp dụng điều kiện thương mại khác nhau trong các giao dịch tương tự là hành vi phân biệt đối xử của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, độc quyền đối với một hoặc một số đối tác về điều kiện mua, bán, giá cả, thời hạn thanh toán, số lượng trong những giao dịch mua, bán háng hóa, dịch vụ tương tự về mặt giá trị hoặc tính chất hàng hoá, dịch vụ. Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền đã sử dụng quyền lực thị trường tạo ra rào cản thương mại với một hoặc một bộ phận doanh nghiệp, người kinh doanh bằng việc buộc họ phải chấp nhận những điều kiện thương mại bất lợi hơn so với đối tác mà họ muốn hợp tác.
Về mục đích, thông qua thực hiện hành vi áp dụng điều kiện thương mại khác nhau trong các giao dịch tương tự, doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, độc quyền có thể mong muốn khống chế về giá mua, giá bán, hạn chế phân phối, giới hạn phạm vi mua, bán hàng hóa dịch vụ theo chiến lược kinh doanh có lợi cho họ. Bởi vậy, hành vi hành vi áp dụng điều kiện thương mại khác nhau trong các giao dịch tương tự của doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền có thể có những điểm tương tự như hành vi áp đặt giá mua, giá bán, hạn chế phân phối hàng hóa, dịch vụ hay giới hạn thị trường. Điểm khác biệt giữa hành vi này với các hành vi còn lại vừa nêu là ở chỗ hành vi này chỉ áp dụng đối với một hoặc một số đối tác chứ không phải là chính sách về điều kiện thương mại chung. Vì vậy, để chứng minh hành vi hành vi áp dụng điều kiện thương mại khác nhau trong các giao dịch tương tự phải làm rõ những doanh nghiệp đối tác nào bị áp dụng những điều kiện thương mại bất lợi so với những doanh nghiệp khác.
Về hậu quả của hành vi áp dụng điều kiện thương mại khác nhau trong các giao dịch tương tự của doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền, theo quy định của Luật Cạnh tranh 2018 có sự khác biệt với Luật Cạnh tranh 2004. Nếu trong Luật Cạnh tranh 2004 là “tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh” thì trong Luật Cạnh tranh 2018, hậu quả được xác định cụ thể là “dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác”. Có nghĩa là, để chứng minh hậu quả của hành vi áp dụng điều kiện thương mại khác nhau trong các giao dịch tương tự phải làm rõ vì hành vi này mà doanh nghiệp, người kinh doanh bị đối xử bất bình đẳng đã từ bỏ, hoặc gặp khó khăn tham gia, mở rộng thị trường.
1.9. Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác trong ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác
“Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác trong ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ” được Luật Cạnh tranh năm 2018 quy định tại điểm đ Khoản 1 Điều 27. So với quy định tương ứng tại khoản 5 Điều 13 Luật Cạnh tranh 2004 thì Luật Cạnh tranh 2018 bổ sung thêm hậu quả của hành vi tức “dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác”. Như vậy về hành vi vẫn giữ nguyên như quy định tại Luật Cạnh tranh 2004. Theo hướng dẫn tại Điều 30 Nghị định 116/2005/NĐ-CP thì hành vi áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác trong ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ được quy định như sau:
Áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ là việc đặt điều kiện tiên quyết sau đây trước khi ký kết hợp đồng:
Hạn chế về sản xuất, phân phối hàng hoá khác; mua, cung ứng dịch vụ khác không liên quan trực tiếp đến cam kết của bên nhận đại lý theo quy định của pháp luật về đại lý;
Hạn chế về địa điểm bán lại hàng hóa, trừ những hàng hóa thuộc danh mục mặt hàng kinh doanh có điều kiện, mặt hàng hạn chế kinh doanh theo quy định của pháp luật;
Hạn chế về khách hàng mua hàng hóa để bán lại, trừ những hàng hóa quy định tại điểm b khoản này;
Hạn chế về hình thức, số lượng hàng hoá được cung cấp.
Quy định trên của Nghị định 116/2005/NĐ-CP có thể hiểu về hành vi áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác trong ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, độc quyền như sau:
Hành vi áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác trong ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ được doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền thực hiện trước khi ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa dịch vụ. Điều đó có nghĩa là việc áp đặt có thể thể hiện qua các phương tiện thông tin (thông báo) chung đối với tất cả những đối tác mong muốn hợp tác với doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền trong giao kết hợp đồng mua, bán hàng hóa dịch vụ. Việc áp đặt này cũng có thể xảy ra trong quá trình thương thảo, đàm phán trước khi ký hợp đồng giữa doanh nghiệp bị điều tra với từng đối tác cụ thể. Theo quy định của điều luật, đối tác bị áp đặt điều kiện trong ký kết hợp đồng thương mại phải là doanh nghiệp khác, có nghĩa là độc lập về mặt pháp lý với doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền thực hiện hành áp đặt. Tuy nhiên, quy định của Luật Cạnh tranh cũng không chỉ rõ số lượng doanh nghiệp bị áp đặt. Việc áp đặt điều kiện ký kết hợp đồng có thể được doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền thực hiện với một, một số hoặc toàn bộ các đối tác muốn giao kết hợp đồng với họ. Vì vậy, khi chứng minh hàng vi vi phạm, Cơ quan Điều tra vụ việc cạnh tranh có thể chỉ cần làm rõ việc áp đặt được doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền thực hiện với một đối tác cụ thể là đủ để kết luận về hành vi vi phạm. Tuy nhiên, để làm rõ toàn bộ vụ việc theo đúng tính chất, mức độ thì cần làm rõ được tất cả các doanh nghiệp đã bị áp đặt điều kiện trong ký kết hợp đồng thương mại.
Qua nghiên cứu nội dung Điều 30 Nghị định 116/2005/NĐ-CP cho thấy các nội dung bị áp đặt có tính chất hạn chế cạnh tranh. Các nội dung áp đặt được đặt ra như điều kiện mà đối tác buộc phải chấp nhận để được ký hợp đồng thương mại với doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, độc quyền. Ngoài nghĩa vụ của bên mua hoặc bên bán hàng hóa, dịch vụ phù hợp quy định pháp luật, đối tác phải chấp nhận thêm các điều kiện ký kết hợp đồng do doanh nghiệp đặt ra. Những điều kiện này so thể là một nghĩa vụ nằm trong một vài điều khoản của hợp đồng hoặc chỉ là một yêu cầu độc lập được doanh nghiệp đưa ra khi đàm phán ký kết hợp đồng. Nội dung áp đặt theo mô tả của luật cạnh tranh bao gồm:
Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa khác: yêu cầu đối tác cam kết không sản xuất, phân phối các hàng hóa khác với một hoặc một số hàng hóa đã được doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền nêu ra; hoặc được sản xuất, phân phối hàng hóa khác nhưng với số lượng bị hạn địnhHạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa khác: yêu cầu đối tác cam kết không sản xuất, phân phối các hàng hóa khác với một hoặc một số hàng hóa đã được doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền nêu ra; hoặc được sản xuất, phân phối hàng hóa khác nhưng với số lượng bị hạn định
Hạn chế bên nhận đại lý mua, cung ứng dịch vụ khác không liên quan trực tiếp đến cam kết: yêu cầu bên nhận đại lý (trừ đại lý độc quyền) cam kết không mua hàng hóa, cung ứng dịch vụ khác với hàng hóa, dịch vụ do doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền đặt ra.
– Hạn chế về địa điểm bán lại hàng hóa: bắt buộc đối tác cam kết chỉ thực hiện việc bán lại hàng hóa ở khu vực, địa điểm nhất định. Hành vi này có loại trừ trường hợp hàng hóa kinh doanh có điều kiện hoặc hạn chế kinh doanh;
-Hạn chế về khách mua hàng hóa để bán lại: bắt buộc đối tác cam kết không bán cho những khách hàng mua về để bán lại hoặc giới hạn số lượng, khu vực… của khách hàng mua để bán lại. Hành vi này cũng loại trừ trường hợp hàng hóa kinh doanh có điều kiện, hạn chế kinh doanh;
-Hạn chế về hình thức, số lượng hàng hóa được cung cấp: yêu cầu đối tác chỉ được thực hiện một, một số hình thức cung cấp hoặc chỉ được cung cấp với số lượng đã hạn định.
Mục đích của doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền khi thực hiện hành vi áp đặt điều kiện ký kết hợp đồng chủ yếu là tận dụng vị trí của mình để tối đa hóa lợi nhuận chứ không phải từ hiệu quả kinh doanh. Việc thực hiện hành vi áp đặt điều kiện ký kết hợp đồng của doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền có thể dẫn đến hệ quả: (1) Doanh nghiệp đối tác không thể đáp ứng được hoặc không chấp nhận những điều kiện do doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền đặt ra, hợp đồng không được ký kết, đồng nghĩa doanh nghiệp là không thể tham gia thị trường liên quan (nếu chưa tham gia) hoặc mất cơ hội mở rộng thị trường, thậm chí phải rời bỏ thị trường (nếu đang tham gia); (2) Doanh nghiệp đối tác chấp nhận các điều kiện được đưa ra để nhận hợp đồng, song với việc thực hiện các điều kiện đó họ không thể mở rộng được thị trường.
Từ những nội dung quy định của pháp luật và lưu ý trên, chúng ta cùng tìm hiểu về những vấn đề cần chứng minh và chứng cứ trong trường hợp này.
1.10. Yêu cầu doanh nghiệp khác, khách hàng chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác
Hành vi “yêu cầu doanh nghiệp khác, khách hàng chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác” quy định tại điểm đ, khoản 1 Điều 27 Luật Cạnh tranh 2018 kế thừa và có sửa đổi quy định về hành vi “buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng” tại khoản 5 Điều 13 Luật Cạnh tranh 2004. Như vậy, so với Luật Cạnh tranh 2004, Luật Cạnh tranh 2018 mở rộng thêm đối tượng bị yêu cầu ngoài “doanh nghiệp khác” còn có “khách hàng” đồng thời quy định cụ thể về hậu quả “dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác”.
Để hiểu về hành vi “yêu cầu doanh nghiệp khác, khách hàng chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng” chúng ta có thể tham khảo quy định tại khoản 2 Điều 30 Nghị định 116/2005/NĐ-CP. Cụ thể:
Buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng là hành vi gắn việc mua, bán hàng hoá, dịch vụ là đối tượng của hợp đồng với việc phải mua hàng hoá, dịch vụ khác từ nhà cung cấp hoặc người được chỉ định trước hoặc thực hiện thêm một hoặc một số nghĩa vụ nằm ngoài phạm vi cần thiết để thực hiện hợp đồng.
Từ những nội dung trên, chúng ta có thể hiểu về hành vi yêu cầu doanh nghiệp khác, khách hàng chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác như sau:
Hành vi “yêu cầu doanh nghiệp khác, khách hàng chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng” có sự tương đồng với hành vi “áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác trong ký kết hợp đồng” ở chỗ các hai hành vi này đặt ra những điều kiện có nội dung phản cạnh tranh khi ký kết và thực hiện hợp đồng thương mại. Điểm khác biệt giữa hai hành vi là ở nội dung mà doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền đặt ra cho doanh nghiệp và khách hàng. Cụ thể, nội dung yêu cầu doanh nghiệp khác, khách hàng chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng được thể hiện ở việc:
Gắn việc mua, bán hàng hoá, dịch vụ là đối tượng của hợp đồng với việc phải mua hàng hoá, dịch vụ khác từ nhà cung cấp hoặc người được chỉ định trước. Trên thực tế, yêu cầu này rất đa dạng. Chẳng hạn, doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền yêu cầu đối tác phải sử dụng dịch vụ vận tải hàng hóa của một doanh nghiệp vận tải do họ chỉ định; chỉ chấp nhận giao dịch trên hệ thống của một nhà viễn thông cụ thể; thay vì đưa ra yêu cầu tiêu chuẩn chất lượng cho nguyên liệu họ lại chỉ định sản phẩm bán cho họ phải sản xuất từ nguyên liệu mua của một doanh nghiệp cụ thể… Thông thường “nhà cung cấp hoặc người được chỉ định trước” là một doanh nghiệp trong cùng hệ thống hoặc có liên kết với doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền. Do đó, khi chứng minh hành vi này cần làm rõ nhà cung cấp hoặc người được chỉ định là đơn vị nào và họ có mối liên hệ thế nào với doanh nghiệp bị điều tra.
Gắn việc mua, bán hàng hóa dịch vụ là đối tượng của hợp đồng với việc thực hiện thêm một hoặc một số nghĩa vụ nằm ngoài phạm vi cần thiết để thực hiện hợp đồng. Chẳng hạn, trong vụ việc Công ty Ánh Dương, đối tượng của hợp đồng cung cấp phòng giữa Công ty Ánh Dương và các khách sạn là dịch vụ lưu trú được thực hiện thông qua việc thuê phòng khách sạn. Trong điều khoản một số hợp đồng có đoạn: “Trường hợp khách sạn công bố giá trên mạng, giá công bố phải được cộng thêm ít nhất 15-20% so với giá hợp đồng để bảo vệ quyền lợi và uy tín của Bên B”. Công ty Ánh Dương đã yêu cầu doanh nghiệp khác (các khách sạn) thực hiện nghĩa vụ cộng thêm vào giá công bố trên mạng để bảo vệ uy tín cho Ánh Dương, là nội dung không liên quan đến dịch vụ lưu trú mà Ánh Dương mua của khách sạn. Như vậy, vấn đề quan trọng để chứng minh hành vi này là phải làm rõ nghĩa vụ được doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền yêu cầu có nằm ngoài phạm vi cần thiết để thực hiện hợp đồng hay không. Điều này thường được thể hiện rõ nhất ở sự không liên quan giữa đối tượng của nghĩa vụ được yêu cầu thực hiện với đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ.
Đơn vị gửi tin Phòng: Tháng gửi Tháng 08/2023
Mục yêu cầu đăng tin
Ngôn ngữ Tiếng việt (cỡ chữ 13 Times New Roman) Số trang
Số từ (words) 05
2844
Xếp loại Tin/Bài Lãnh đạo UB/Trưởng Ban biên tập
Lãnh đạo Phòng/ Ban biên tập
Người viết
Lê Huyền Trang
Đề xuất
Tiêu đề: Kế hoạch điều tra vụ việc lạm dụng vị trí thống lĩnh, độc quyền (P4)
1.11. Ngăn cản việc tham gia hoặc mở rộng thị trường của doanh nghiệp khác
Hành vi ngăn cản việc tham gia hoặc mở rộng thị trường của doanh nghiệp khác được quy định tại điểm e khoản 1 Điều 27 Luật Cạnh tranh 2018. So với khoản 6 Điều 13 Luật Cạnh tranh 2004 về “ngăn cản việc gia nhập thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới”, Luật Cạnh tranh 2018 đã mở rộng phạm vi của đối tượng của hành vi. Thay vì chỉ quy định “ngăn cản việc gia nhập thị trường”, Luật Cạnh tranh 2018 quy định thêm “ngăn cản mở rộng thị trường”. Đối tượng bị ngăn cản không chỉ có “đối thủ cạnh tranh mới” mà là “doanh nghiệp khác”, có nghĩa là kể cả doanh nghiệp đang chuẩn bị gia nhập thị trường và những doanh nghiệp đang tham gia thị trường liên quan. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể tham khảo quy định Điều 31 Nghị định 116/2005/NĐ-CP để tìm hiểu về hành vi này. Cụ thể Điều 31 Nghị định 116/2005/NĐ-CP như sau:
Ngăn cản việc gia nhập thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới là hành vi tạo ra những rào cản sau đây:
Yêu cầu khách hàng của mình không giao dịch với đối thủ cạnh tranh mới.
Đe dọa hoặc cưỡng ép các nhà phân phối, các cửa hàng bán lẻ không chấp nhận phân phối những mặt hàng của đối thủ cạnh tranh mới.
Bán hàng hóa với mức giá đủ để đối thủ cạnh tranh mới không thể gia nhập thị trường nhưng không thuộc trường hợp quy định tại Điều 23 của Nghị định này.
Trên cơ sở chọn lọc những nội dung còn phù hợp của Điều 31 NGhị định 116/2005/NĐ-CP và cập nhật những nội dung điều chỉnh của Luật Cạnh tranh 2008, chúng ta có thể hiểu như sau:
Hành vi ngăn cản việc doanh nghiệp khác tham gia hoặc mở rộng thị trường của doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền là việc những doanh nghiệp này sử dụng quyền lực thị trường tạo ra rào cản thị trường đối với doanh nghiệp khác. Hành vi này có những điểm tương đồng với hành vi “áp dụng điều kiện thương mại khác nhau trong các giao dịch tương tự” hoặc “áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác trong ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ” vì đều có tính cưỡng bức với đối tác và khách hàng. Tuy nhiên, trong hai hành vi sau, việc đưa ra yêu cầu không nhằm đến một đối thủ cạnh tranh cụ thể, còn trong hành vi “ngăn cản việc tham gia hoặc mở rộng thị trường của doanh nghiệp khác”, đối thủ cạnh tranh được xác định cụ thể. Điều đó có nghĩa là, khi chứng minh hành vi “ngăn cản việc tham gia hoặc mở rộng thị trường của doanh nghiệp khác”, phải làm rõ doanh nghiệp cụ thể nào đã bị ngăn cản tham gia hoặc mở rộng thị trường.
Các rào cản cụ thể mà doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền có thể tạo ra đối với doanh nghiệp khác bao gồm:
– Yêu cầu khách hàng của mình không giao dịch với doanh nghiệp khác. Đây được coi là hành vi thâu tóm khách hàng. Bằng việc yêu cầu khách hàng của mình không giao dịch với đối thủ cạnh tranh, doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền đã tạo ra những khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm hoặc làm tăng chi phí sản xuất, kinh doanh của đối thủ. Nếu khách hàng là người tiêu thụ hoặc phân phối sản phẩm thì hành vi này đã làm cho đối thủ gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn đầu ra. Ngược lại, nếu khách hàng là người cung cấp nguyên liệu đầu vào, hành vi này đã ngăn cản đối thủ mới tiếp cận các nguồn nguyên liệu quan trọng trên thị trường. Trong mọi trường hợp, đối thủ cạnh tranh buộc phải tổ chức kế hoạch tìm kiếm nguồn nguyên liệu mới hoặc nguồn tiêu thụ mới. Việc thâu tóm các nguồn cung cấp nguyên liệu, nguồn tiêu thụ đã làm tăng chí phí của đối thủ, làm cho đối thủ bị suy giảm sức cạnh tranh.
– Đe dọa hoặc cưỡng ép các nhà phân phối, các cửa hàng bán lẻ không chấp nhận phân phối những mặt hàng của doanh nghiệp khác. Với chiến lược này, doanh nghiệp có quyền lực thị trường đã hạn chế khả năng phân phối sản phẩm của đối thủ bằng cách khống chế ý chí của những nhà phân phối hoặc các cửa hàng bán lẻ, ép buộc họ không được phân phối sản phẩm của đối thủ. Lúc này, để có thể tiêu thụ được sản phẩm, doanh nghiệp bị chèn ép buộc phải có chiến lược xây dựng và phát triển mạng lưới phân phối hoàn toàn mới. Những chiến lược này sẽ là mạo hiểm bởi sẽ làm tăng chi phí và tăng độ rủi ro khi tiêu thụ sản phẩm.
– Mua, bán hàng hóa với mức giá đủ để doanh nghiệp khác không thể tham gia hoặc mở rộng thị trường. Đây là trường hợp doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền sử dụng chiến lược ngăn cản qua giá, làm cho doanh nghiệp khác bị “hụt hơi” trong cuộc đua do không đủ tiềm lực như các doanh nghiệp có vị trí thị trường mà phải từ bỏ hoặc thu hẹp kinh doanh. Đối với trường hợp doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền mua, họ sử dụng tiềm lực của mình, định giá mua cao hơn để doanh nghiệp đối thủ không có khả năng hoặc gặp khó khăn trong việc mua được các yếu tố đầu vào, phải tìm kiếm các nguồn đầu vào với chi phí cao hơn. Ngược lại, với doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền bán, họ có thể duy trì giá bán thấp hơn đối thủ, đến một mức nhất định, doanh nghiệp mới muốn gia nhập thị trường hoặc doanh nghiệp đang tham gia phải cân nhắc khả năng thu lợi nhuận mà tử bỏ việc tham gia hoặc thu hẹp phạm vi kinh doanh. Trong trường hợp này, giá bán hàng hóa, dịch vụ do doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền đặt ra phải chưa thấp dưới giá thành toàn bộ. Nếu giá bán thập hơn giá thành toàn bộ thì thuộc trường hợp hành vi “Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 27 Luật Cạnh tranh 2018.
Về hậu quả, quy định pháp luật không yêu cầu xác định hậu quả của hành vi ngăn cản việc doanh nghiệp khác tham gia hoặc mở rộng thị trường của doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền. Điều đó có nghĩa là chỉ cần chứng minh doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền có hành vi khách quan là đủ kết luận về vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, trong thực tế, Cơ quan Điều tra vụ việc cạnh tranh vẫn có thể chứng minh hậu quả thể hiện qua việc doanh nghiệp bị ngăn cản đã từ bỏ ý định tham gia thị trường, hoặc đã tham gia thị trường thì phải ngừng hoặc thu hẹp kinh doanh trên thị trường liên quan.
1.12. Áp đặt điều kiện bất lợi cho khách hàng
“Áp đặt điều kiện bất lợi cho khách hàng” là hành vi được cả Luật Cạnh tranh 2004 và 2018 quy định riêng đối với doanh nghiệp có vị trí độc quyền. Điều Nghị định 116/2005/NĐ-CP hướng dẫn về hành vi “áp đặt điều kiện bất lợi cho khách hàng” như sau:
Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng của doanh nghiệp có vị trí độc quyền là hành vi buộc khách hàng phải chấp nhận vô điều kiện những nghĩa vụ gây khó khăn cho khách hàng trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Qua nghiên cứu nội dung hướng dẫn trên có thể thấy như sau:
Hành vi áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng được thực hiện trong các giao dịch giữa doanh nghiệp độc quyền với khách hàng. Một đặc điểm dễ nhận ra trong những giao dịch này đó chính là sự bất cân xứng về vị trí của các bên. Trong đó, doanh nghiệp độc quyền lợi dụng quyền lực thị trường tuyệt đối của mình buộc khách hàng phải chấp nhận những nghĩa vụ gây khó khăn cho khách hàng trong quá trình thực hiện hợp đồng. Thông thường các doanh nghiệp độc quyền thường thiết lập giá “bóc lột” đối với khách hàng khi giao thương về sản phẩm. Ngoài ra các doanh nghiệp còn có thể bắt buộc khách hàng phải chấp nhận nghĩa vụ tham gia mạng lưới phân phối độc quyền hoặc có tính chất phân biệt đối xử. Khách hàng cũng có thể bị doanh nghiệp độc quyền yêu cầu phải ký kết thêm các hợp đồng phụ như buộc phải mua thêm sản phẩm, sử dụng dịch vụ kèm theo của doanh nghiệp độc quyền. Vì không còn sự lựa chọn nào khác trong thị trường liên quan nên khách hàng buộc phải chấp nhận “vô điều kiện” những nghĩa vụ do doanh nghiệp độc quyền đưa ra.
Với những nội dung nêu trên, khi chứng minh hành vi phải làm rõ những vấn đề sau:
Để làm rõ hành áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng của doanh nghiệp độc quyền phải xác định được khách hàng nào bị áp đặt điều kiện. Pháp luật cạnh tranh không quy định cụ thể số lượng khách hàng và số lượng hợp đồng bị áp đặt điều kiện bất lợi. Trên thực tế, khách hàng bị áp đặt điều kiện bất lợi có thể là một, một nhóm hoặc toàn bộ khách hàng. Quá trình chứng minh, cần xác định được cụ thể các khách hàng và các hợp đồng đã bị áp đặt điều kiện bất lợi.
Tính chất áp đặt một phía từ phía doanh nghiệp độc quyền, có nghĩa là những nghĩa vụ được yêu cầu hoàn toàn do doanh nghiệp độc quyền đưa ra. Khách hàng không có cơ hội để thương thảo hoặc có nhưng những ý kiến phản đối không được bên doanh nghiệp độc quyền chấp nhận. Khách hàng phải chấp nhận yêu cầu mới thiết lập được hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ.
Nghĩa vụ được doanh nghiệp độc quyền đưa ra rõ ràng gây khó khăn cho khách hàng trong quá trình thực hiện hợp đồng. Đây chính là hậu quả của hành vi “áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng” của doanh nghiệp độc quyền. Quá trình chứng minh phải làm rõ những khó khăn cụ thể mà khách hàng đã gặp phải khi thực hiện hợp đồng.
1.13. Đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng
Hành vi “đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng” của doanh nghiệp độc quyền được quy định điểm c, khoản Điều 27 Luật Cạnh tranh 2018. Nội dung quy định giữ nguyên so với khoản 3 Điều 14 Luật Cạnh tranh 2004. Hành vi này được Điều 33 Nghị định 116/2005/NĐ-CP hướng dẫn như sau:
Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng là hành vi của doanh nghiệp có vị trí độc quyền thực hiện dưới một trong các hình thức sau:
Đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng đã giao kết mà không cần thông báo trước cho khách hàng và không phải chịu biện pháp chế tài nào.
Đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng đã giao kết căn cứ vào một hoặc một số lý do không liên quan trực tiếp đến các điều kiện cần thiết để tiếp tục thực hiện đầy đủ hợp đồng và không phải chịu biện pháp chế tài nào.
Từ nội dung hướng dẫn trên, chúng ta cần chú ý những vấn đề sau khi xác định các vấn đề cần chứng minh và chứng cứ cần thu thập:
Hành vi “đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng đã giao kết” của doanh nghiệp độc quyền bao gồm hai hành vi: đơn phương thay đổi hợp đồng đã giao kết và (2) đơn phương hủy bỏ hợp đồng đã giao kết.
Đơn phương thay đổi hợp đồng được hiểu là việc doanh nghiệp độc quyền tự ý thay đổi nội dung hoặc chuyển đổi chủ thể đã được ghi nhận trong hợp đồng đã giao kết. Nội dung bị thay đổi có thể là về hàng hóa, dịch vụ; về giá cả; về điều kiện mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; điều kiện cơ sở giao hàng; địa điểm thực hiện dịch vụ; điều kiện thanh toán… Thay đổi về chủ thể có thể là chuyển nghĩa vụ thực hiện hợp đồng cho đơn vị khác với chủ thể đã quy định trong hợp đồng đã giao kết.
Đơn phương hủy bỏ hợp đồng là việc doanh nghiệp độc quyền tự ý chấm dứt hoàn toàn việc thực hiện nghĩa vụ đã được ghi nhận trong hợp đồng đã giao kết. Trên thực tế, hành vi này được thể hiện ở việc doanh nghiệp độc quyền ngừng việc mua, bán hàng hóa, dịch vụ; từ chối thực hiện việc thanh toán; từ chối việc cung cấp dịch vụ…
Tính “đơn phương” thể hiện ở việc doanh nghiệp độc quyền tự ý thay đổi, hủy bỏ hợp đồng, không thông báo, không thương thảo lại với đối tác về việc thay đổi hoặc hủy bỏ đó. Trong thị trường cạnh tranh, các chủ thể kinh doanh không thể thực hiện những hành vi như vậy vì vị trí của họ sẵn sàng có chủ thể khác thay thế. Với thị trường độc quyền mua hoặc độc quyền bán, doanh nghiệp độc quyền, là chủ thể duy nhất mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ trên thị trường, họ hoàn toàn có thể lợi dụng vị thế của mình để thay đổi, chấm dứt hợp đồng mà không cần thông báo, thương thảo lại mà đối tác của họ phải chấp nhận vì không thể tìm được chủ thể khác thay thế.
Hành vi đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng đã giao kết có đối tượng là “hợp đồng đã giao kết”. Hợp đồng đã giao kết ở đây là những hợp đồng được ký kết và thực hiện hợp pháp theo quy định pháp luật. Những hợp đồng bất hợp pháp thì về bản chất chúng vô hiệu ngay từ đầu nên việc đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng đã giao kết sẽ được xem xét, xử lý theo quy định pháp luật về hợp đồng. Trong trường hợp hợp đồng là hợp pháp, pháp luật cạnh tranh không quy định cụ thể số lượng hợp đồng bị doanh nghiệp độc quyền đơn phương thay đổi hay hủy bỏ. Điều đó có nghĩa là chỉ cần chứng minh được một hợp đồng bị thay đổi, hủy bỏ cũng đủ để kết luận doanh nghiệp độc quyền đã thực hiện hành vi vi phạm. Tuy nhiên, để đánh giá đúng bản chất vụ việc, Cơ quan Điều tra vụ việc cạnh tranh cần chứng minh đầy đủ, đúng thực tế tất cả những hợp đồng đã bị doanh nghiệp độc quyền thay đổi hoặc hủy bỏ.
Về tình tiết “không có lý do chính đáng” được giải thích tại Điều 33 Nghị định 116/2005/NĐ-CP bao gồm: “không cần thông báo trước cho khách hàng” hoặc “căn cứ vào một hoặc một số lý do không liên quan trực tiếp đến các điều kiện cần thiết để tiếp tục thực hiện đầy đủ hợp đồng” và “không phải chịu biện pháp chế tài nào”. Như vậy, về mặt hình thức hay thủ tục, “không có lý do chính đáng” thể hiện ở việc doanh nghiệp độc quyền không cần thực hiện nghĩa vụ thông báo trước về sự thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết. Về mặt nội dung, lý do không được coi là chính đáng nếu căn cứ để doanh nghiệp độc quyền đưa ra để thay đổi hoặc chấm dứt hợp đồng “không liên quan trực tiếp đến các điều kiện cần thiết để tiếp tục thực hiện đầy đủ hợp đồng”. Ngoài ra, để bị coi “không có lý do chính đáng” cần thêm điều kiện là doanh nghiệp độc quyền “không phải chịu biện pháp chế tài nào”.